Một là, chất lượng thông tin.Nếu thông tin đầu vào tốt thì đầu ra tốt. Điều này có nghĩa là nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi, tiết kiệm chi phí thì doanh nghiệp có một tình hình tài chính tốt đẹp.
Hai là, hệ thống bên trong xử lý thông tin. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng lại muốn tạo tình hình tài chính tốt đẹp bằng cách ghi tăng doanh thu hoặc giảm chi phí. Và ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi nhưng lại muốn trốn thuế nên tăng chi phí, giảm doanh thu.
+Lĩnh vực về kiểm toán quy tắc
Tập trung vào việc đánh giá tình hình thực hiện các thể lệ, các chế độ, luật pháp của đơn vị được kiểm tra trong quá trình hoạt động.
+Lĩnh vực về kiểm toán hiệu quả
Đối tượng trực tiếp của lĩnh vực này là sự kết hợp giữa các yếu tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua sắm, sản xuất hay dịch vụ, kiểm toán loại này giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện và cải tổ hoạt động kinh doanh trong đơn vị cần được kiểm toán.
+Lĩnh vực kiểm toán hiệu năng
Chủ yếu được thực hiện ở khu vực công cộng, nơi mà lợi ích và hiệu quả không phải là vấn đề quan tâm hàng đầu như trong các doanh nghiệp, nơi mà mục tiêu chủ yếu là việc đánh giá toàn diện năng lực quản lý và bồi bổ thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của đơn vị được kiểm toán.
Hiệu năng là khả năng hoàn thành mục tiêu đề ra, nó khó có thể định lượng được và phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nhà quản lý.
Các quan niệm trình bày trên đây không hoàn toàn đối lập nhau mà phản ánh quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán, và mang tính kế thừa.
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm toán căn bản - 1
- Kiểm toán căn bản - 2
- Chuẩn Mực Kiểm Toán Được Chấp Nhận Phổ Biến (Gaas-Generally Accepted Auditing Standards)
- Kiểm toán căn bản - 5
- Các Yếu Tố Cấu Thành Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
1.3. Đối tượng, chức năng của kiểm toán
1.3.1. Đối tượng của kiểm toán
1.3.1.1. Khái quát về đối tượng và khách thể kiểm toán
Đối tượng chung của kiểm toán là thực trạng hoạt động của một đơn vị, một thực thể kinh tế. Trong đó chủ yếu là hoạt động tài chính.
Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các báo cáo tài chính của các tổ chức hay một thực thể kinh tế. Thông thường các báo cáo tài chính là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ... Ngoài ra còn có thực trạng tài sản, nghiệp vụ tài chính, tính hiệu quả, hiệu năng trong hoạt động của đơn vị đó.
Khách thể của kiểm toán được xác định là một thực thể kinh tế hoặc một tổ chức (một cơ quan thuộc chính phủ, một doanh nghiệp hay một cá nhân kinh doanh...).
1.3.1.2. Các yếu tố cấu thành đối tượng cụ thể
1/ Thực trạng hoạt động tài chính
- Khái niệm: Hoạt động tài chính là hoạt động kinh tế phát sinh qua quá trình trao đổi, mua bán, thanh toán thông qua thước đo tiền tệ nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định.[1]
Theo quan điểm trên, bản chất của hoạt động tài chính chính là các quan hệ kinh tế (bao gồm quan hệ sở hữu,quan hệ cấp phát vốn, sử dụng vốn, quan hệ phân phối dưới hình thức tiền tệ), trong đó tiền là hình thái biểu hiện bên ngoài, là vật ngang giá chung để giải quyết các mối quan hệ kinh tế.
Để giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế nói trên thì mục tiêu hoạt động tài chính phải đảm bảo ba nguyên tắc cơ bản sau:
-Nguyên tắc của hoạt động tài chính
+Hoạt động tài chính phải có mục tiêu, kế hoạch rò ràng
Những mối quan hệ kinh tế đều liên quan đến những chủ thể khác nhau. Vì vậy, việc cân đối cụ thể giữa các khâu, các giai đoạn khác nhau trong một hoạt động đều có những hiệu quả khác nhau về kinh tế xã hội. Do vậy, trong các hoạt động tài chính phải có những mục tiêu và kế hoạch rò ràng cho từng thời kỳ, từng công việc cụ thể. Hơn nữa, những mục tiêu này cần phải được lượng hóa thành những cân đối khác nhau, những phương án khác nhau và tìm ra một phương án tối ưu nhất. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý giữa tương quan tiền-hiện vật, giữa mục tiêu-chi phí cho việc thực hiện giữ đầu vào-đầu ra.
+Hoạt động tài chính phải đảm bảo tiết kiệm và có lợi
Mục tiêu của hoạt động tài chính chính là lợi ích do các hoạt động mang lại.Đối với lĩnh vực kinh doanh:Tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động tài chính.Đối với lĩnh vực sự nghiệp: Hoạt động tài chính hướng tới đạt mục tiêu kinh tế xã hội một cách tiết kiệm nhất, tối thiểu hóa chi phí và nguồn lực Nhà nước.
+Hoạt động tài chính phải tuân thủ pháp luật và thể lệ tài chính
Việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế luôn liên quan đến nhiều khách thể khác nhau trong xã hội là nội dung của hoạt động tài chính. Mặt khác, các quan hệ giữa các bên có liên quan đã được qui định cụ thể trong pháp luật và chế độ tài chính cụ thể. Vì vậy, việc tuân thủ các chuẩn mực có liên quan được cụ thể hóa thông qua hệ thống pháp lý của từng thời kỳ sẽ giúp giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế đó.
-Đặc điểm của hoạt động tài chính
+Trong khoa học kiểm toán, thông tin của thực trạng hoạt động tài chính bao gồm hai phần: một phần được phản ánh thông qua tài liệu kế toán, một phần chưa được phản ánh trên sổ sách kế toán. Tương ứng với những phần thông tin khác nhau, kiểm toán viên sẽ sử dụng những phương pháp kiểm toán khác nhau để thu thập bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến của mình.
Đối với phần thông tin được phản ánh trên tài liệu kế toán, kiểm toán viên sử dụng dụng phương pháp kiểm toán chứng từ.
Ngược lại, đối với phần thông tin chưa được phản ánh trên tài liệu kế toán, kiểm toán viên sẽ sử dụng một phương pháp kiểm toán khác để có thể thu thập bằng chứng thích hợp, đó là phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ.
+ Hoạt động tài chính bao gồm một lượng khổng lồ về các nghiệp vụ, các tài sản, các hoạt động cần được kiểm tra. Tuy nhiên, do giới hạn về chi phí, thời gian, con người nên kiểm toán viên không thể tiến hành kiểm toán toàn diện đối tượng kiểm toán của mình. Trong khi đó, kỳ vọng của người sử dụng thông tin mong muốn kiểm toán viên đưa ra những kết luận xác đáng, do vậy trong kiểm toán đã hình thành kỹ thuật chọn mẫu nhằm giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến xác đáng mà không cần tiến hành kiểm toán toàn diện.
+ Không chỉ là đối tượng chung của kiểm toán, hoạt động tài chính còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác như kinh tế học, phân tích hoạt động kinh doanh, phân tích tài chính, kế toán, chính trị…Do đó, kiểm toán viên có thể tận dụng phương pháp của các môn học khác để đánh giá đối tượng của mình trong quá trình kiểm toán.
2/Tài liệu kế toán
- Khái niệm:Tài liệu kế toán là tất cả các chứng từ, sổ sách, báo cáo có liên quan đến công tác kế toán như chứng từ gốc, nhật ký, sổ chi tiết, sổ tổng hợp, sổ cái và các báo cáo tài chính có liên quan.[6]
Trong số các tài liệu kế toán, báo cáo tài chính được xem là tài liệu quan trọng nhất và thường xuyên nhất của cuộc kiểm toán. Có thể lý giải điều đó thông qua tầm quan trọng của tài liệu kế toán, đặc biệt là báo cáo tài chính trong cơ chế thị trường. Bởi tài liệu kế toán không chỉ là cơ sở để tổng hợp các chỉ tiêu trên phạm vi rộng hơn nhằm phục vụ cho công tác kiểm tra, lưu trữ tài liệu và bảo vê tài sản mà còn là cơ sở cho các đối tượng quan tâm ra các quyết định đầu tư, phân phối, thanh toán….
Ngoài ra cũng phải tính đến tính phức tạp trong quá trình xử lý các thông tin kế toán cũng như kết cấu của báo cáo tài chính. Hậu quả của tình trạng này không phải mọi người quan tâm đều am hiểu tài liệu đó mà ngay cả chính kế toán viên đôi khi cũng gặp khó khăn trong việc phản ánh trong việc phản ánh những thông tin phức tạp, đặc biệt là những thông tin mới phát sinh. Ngay cả nội dung và phương pháp tính mỗi khoản mục trên các bảng cân đối kế toán cũng có những quan niệm khác nhau và mang lại kết quả khác nhau. Tính phức tạp này ngày càng tăng lên do quy mô của khách thể kiểm toán không ngừng mở rộng và do tính phức tạp của hoạt động tài chính ngày càng tăng lên, nhiều bên tham gia với các phương thức tham gia khác nhau, nhiều quan hệ mới phát sinh tham gia vào hoạt động tài chính.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến sự cách biệt giữa các chuẩn mực kế toán và các điều kiện thực hiện chúng trong các thời kỳ giữa các nước đã dẫn tới sự nhận thức khác nhau và tổ chức khác nhau, nhất là sự thay đổi của chế độ kế toán. Tất cả những thực tế đó đòi hỏi kiểm toán phải được thực hiện trước tiên đối với tài liệu kế toán nhằm tạo niềm tin cho những người quan tâm và thường xuyên hướng dẫn nghiệp vụ, củng cố nề nếp nghiệp vụ tài chính và tổ chức, cải tiến để nâng cao chất lượng tài liệu kế toán.
- Các yếu tố cần được kiểm tra đối với tài liệu kế toán
Để đáp ứng nhu cầu trên, khi kiểm tra tài liệu kế toán kiểm toán viên thường tập trung vào các tài liệu sau:
+ Tính trung thực của thông tin hoặc số liệu kế toán của các nghiệp vụ được ghi chép trên sổ sách kế toán.
+ Tính hợp pháp, hợp lệ, hợp thức của các biểu mẫu, trình tự lập và luân chuyển chứng từ. Các tài liệu này cần phải được phê duyệt.
+ Tính đầy đủ của thông tin: Tất cả các nghiệp vụ kinh phát sinh đều phải được phản ánh đầy đủ vào sổ sách kế toán.
+ Tính hợp lý của các đối tượng phù hợp với nội dung, nghiệp vụ kinh tế phát sinh, phù hợp với nội dung, hoàn cảnh và thời gian.
+ Tính pháp lý của các thông tin phải tuân thủ các chuẩn mực, chế độ, nguyên tắc kế toán được thừa nhận rộng rãi.
3/Thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính
Trong khoa học kiểm toán, không chỉ có thực trạng hoạt động tài chính và tài liệu kế toán là đối tượng của kiểm toán mà ngày nay thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính cũng là đối tượng của kiểm toán. Có thể lý giải điều này như sau:
- Trong xu hướng xã hội ngày nay, việc mở rộng địa bàn kinh doanh là nhu cầu tất yếu của nhà quản lý. Khi địa bàn kinh doanh được mở rộng, mối liên hệ giữa những người quản lý với nhau cũng như giữa người quản lý với người sở hữu tài sản được thực hiện theo xu hướng và phương thức khác nhau. Chính điều này đã tạo nên sự tách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản.
- Khi sản xuất phát triển, tài sản được biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau, với yêu cầu về quy cách, phẩm chất khác nhau, bảo quản khác nhau lại được lưu trữ trên nhiều kho bãi với những người quản lý khác nhau. Cộng thêm vào đó là các yếu tố về rủi ro về mất mát tài sản, hư hỏng hàng tồn kho hay sự thâm nhập của thị trường về giá cả, tỷ suất… Tất cả những thực tế đó đã tạo nên khoảng cách giữa tài sản với sự phản ánh của nó trên sổ sách kế toán.
+ Tài sản thì vận động liên tục từ hình thái này sang hình thái khác lại bao gồm nhiều chủng loại khác nhau làm nảy sinh các nghiệp vụ kinh tế, tài chính. Chính vì
vậy, việc quản lý chúng rất khó khăn, đồng thời sự phản ánh về tài sản có sự khác biệt so với những thông tin trên sổ sách kế toán.
+ Đối với các nghiệp vụ tài chính do đa dạng, phức tạp lại liên tục biến đổi đòi hỏi cần phải có những đánh giá thực tế đối với chúng để đưa ra những kết luận đúng đắn đối với các nghiệp vụ này, tình hình tài chính của đơn vị.
Tất cả những điều này dẫn đến một điều tất yếu cần phải có hoạt động kiểm toán kiểm tra thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính.
Chính sự vận động của tài sản làm cho kiểm toán phân đoạn ra các nhóm tài sản để dễ kiểm toán, nhóm lại thành một số nhóm có tính chất liên đới. Đồng thời hình thành những chu trình có tính chất khép kín, kiểm toán tất cả những gì có liên quan đến chu trình.
Ví dụ: Chu trình bán hàng và thu tiền bao gồm giá vốn hàng bán, tiền, doanh thu, dự phòng khoản phải thu.
Sự vận động này cũng làm phát sinh các nghiệp vụ như nghiệp vụ mua, bán, đầu tư, sản xuất, thanh toán, nhập xuất kho, các nghiệp vụ tài chính được xảy ra trong một chu trình khép kín của sự vận động vốn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành các chu trình tài chính trong hoạt động của đơn vị.
Do vậy, kiểm toán viên cần phân ra các phần hành cụ thể để phù hợp với sự vận động của tài sản cũng như đầu mối của các quan hệ tài chính.
Ví dụ: Trong kiểm toán tài chính có thể phân ra thành các phần hành dựa vào đầu mối quan hệ kinh tế như: chu trình kiểm toán bán hàng và thu tiền, chu trình kiểm toán mua hàng và thanh toán, chu trình kiểm toán hàng tồn kho, chu trình kiểm toán tiền lương và nhân công, chu trình kiểm toán huy động và hoàn trả vốn.
4/ Hiệu quả và hiệu năng
Theo quan điểm truyền thống, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính cùng với tài liệu kế toán gắn liền với sự ra đời và phát triển của kiểm toán. Nhưng ngày nay, trong điều kiện quy mô và hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng, nguồn lực của doanh nghiệp thì có hạn, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt… Lúc này, đặt ra một thách thức cho các nhà quản lý trong doanh nghiệp đó là tính tối ưu hóa trong việc sử dụng nguồn lực của đơn vị, đặc biệt là hiệu quả, hiệu năng của các chương trình, dự án cụ thể.
- Hiệu quả là thuật ngữ dùng để so sánh giữa kết quả đạt được và nguồn lực bỏ ra.
- Hiệu năng là thuật ngữ dùng để so sánh giữa kết quả đạt được và khả năng hoàn thành mục tiêu.
Một vấn đề đặt ra đó là hiệu quả, hiệu năng của các chương trình, dự án khác nhau thì có khác nhau không?
- Hiệu quả, hiệu năng của các hoạt động khác nhau là khác nhau. Do đó khi kiểm toán hiệu quả, hiệu năng của một chương trình, hoạt động nào đó thì kiểm toán viên cần phải xác định các chuẩn mực, các tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá. Tính đến thời điểm này, vẫn chưa có một chuẩn mực chung nào cho mọi cuộc kiểm toán hoạt động.
- Việc xây dựng các chuẩn mực để đánh giá tính hiệu quả dễ dàng hơn so với xây dựng những chuẩn mực để đánh giá tính hiệu năng do hiệu năng chỉ mang tính chất định tính phải cần các chuyên gia, còn hiệu quả thì được thực hiện dễ dàng do so sánh giữa công ty này với công ty khác.
Để xem xét đơn vị hoạt động có hiệu quả không, kiểm toán viên có thể so sánh tiêu chí năm này so với năm trước, so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành, mục tiêu nhà quản lý đặt ra và thương thuyết với nhà quản lý cách xác lập trước các tiêu chí đánh giá.
Để xây dựng những chuẩn mực trong việc đánh giá tính hiệu quả, hiệu năng kiểm toán viên có thể:
+ So sánh giữa thực tế với kế hoạch hoặc định mức.
+ So sánh số bình quân chung của ngành.
+ So sánh số liệu hay chỉ tiêu của công ty hay đơn vị với chỉ tiêu của công ty hay đơn vị có cùng quy mô trong ngành.
+ So sánh số liệu của năm nay so với năm trước để xem số liệu của năm nay có hiệu quả không.
+ Thương thuyết với các chuyên gia để xây dựng các chuẩn mực mới phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị.
1.3.2. Chức năng của kiểm toán
Trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán là một môn khoa học độc lập, có đối tượng, chức năng và phương pháp nghiên cứu riêng. Xuất phát từ bản chất của ngành nghề, chức năng kiểm toán ra đời nhằm góp phần duy trì sự hình thành và phát triển của kiểm toán.Kiểm toán có hai chức năng cơ bản xác minh và bày tỏ ý kiến.
1.3.2.1. Chức năng xác minh
Nhằm xem xét mức độ trung thực, hợp lý của các tài liệu và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính.[6]
Trong quá trình phát triển của kiểm toán, chức năng xác minh ra đời gắn liền với sự tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này của kiểm toán không ngừng phát triển và tùy vào điều kiện lịch sử cụ thể, được thể hiện khác nhau tùy thuộc đối tượng cụ thể của kiểm toán là bảng khai tài chính hay nghiệp vụ kinh tế cụ thể hoặc toàn bộ tài liệu kế toán.
Xác minh là hình thức kiểm tra các hoạt động tài chính đã diễn ra trong quá khứ nhằm xác định tính đúng đắn và hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết
toán của các đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội được các bên liên quan quan tâm.
Đối với các bảng khai tài chính, chức năng xác minh được thực hiện bởi những người kiểm tra độc lập bên ngoài. Ở thời kỳ cổ đại, biểu hiện bằng một chữ “chứng thực”(Probaturer) trên bảng khai tài chính do các kiểm toán viên độc lập được vua Edouard Đệ Nhất và các nam tước tuyển dụng. Từ đó, hình thành nên tên gọi kế toán viên công chứng (Public Accountant) nhằm để chỉ các kiểm toán viên độc lập.
Ngày nay, khi các quan hệ kinh tế trở nên phức tạp và tính pháp lý được yêu cầu cao thì việc xác minh bảng khai tài chính phải đảm bảo hai yếu tố cơ bản sau:
- Tính trung thực và hợp lý của các con số.
- Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính.
Ngày nay, chức năng xác minh không còn biểu hiện bằng một chữ “chứng thực” nữa mà chuyển hóa thành “Báo cáo kiểm toán” (Audit report) thích ứng với từng tình huống khác nhau có các loại báo cáo kiểm toán khác nhau.
Cho đến ngày nay, một vấn đề vẫn còn đang được tranh cãi trong chức năng xác minh của kiểm toán đó là việc phát hiện gian lận và sai phạm trong tài chính. Ở hầu hết các nước trên thế giới, vấn đề kiểm toán được đặt ra như những “khác biệt về kỳ vọng” (expectation gap) giữa kiểm toán và quản lý. Sự khác biệt này là tất yếu do luôn có khoảng cách giữa mong muốn phát hiện tất cả các gian lận và sai sót với khả năng thực tế của tổ chức kiểm toán cũng như quan hệ giữa chi phí và hiệu quả kiểm toán.
Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là chưa có sự thống nhất giữa nhận thức và tổ chức (kế cả ban hành chuẩn mực) kiểm toán.
Về nhận thức, kiểm toán cần tạo niềm tin cho những người quan tâm nên nói chung không cho phép có gian lận và sai sót trọng yếu trong đó có gian lận và sai sót lớn. Trong khi đó cũng có quan niệm kiểm toán viên không có nghĩa vụ phát hiện tất cả các gian lận và sai sót. Thậm chí còn có quan niệm kiểm toán viên không có trách nhiệm phát hiện sai sót và coi đây là trách nhiệm của nhà quản lý. Tất nhiên những nhận thức này đều liên quan đến khái niệm trọng yếu và rủi ro, một trong những khái niệm quan trọng của kiểm toán.
Về tổ chức, tuy những chuẩn mực được ban hành chưa có sự thống nhất với nhau, nhưng đều có mục đích chung là xóa dần sự tách biệt này. Để đạt được mục tiêu đó, các quốc gia thường hướng đến việc hoàn thiện các chuẩn mực kiểm toán. Nhưng quan trọng hơn cả là chất lượng toàn diện cả về phẩm hạnh và chuyên môn của kiểm toán viên.
1.3.2.2. Chức năng bày tỏ ý kiến
Cùng với quá trình phát triển của kiểm toán, chỉ một chức năng xác minh, kiểm toán không thể đáp ứng nhu cầu của nhà quản lý. Đó cũng là lý do chức năng bày tỏ ý
kiến ra đời. Tuy phát triển sau chức năng xác minh nhưng chức năng này cũng có quá trình lâu dài và phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ XX ở thời kỳ phát triển của kiểm toán. Lúc này mục đích của kiểm toán đã thay đổi từ phát hiện các sai phạm đã chuyển sang nhận xét mức độ trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính làm cho chúng ta thấy rò hơn về tầm quan trọng về tầm quan trọng của chức năng bày tỏ ý kiến của kiểm toán viên. Kiểm toán viên sẽ xem xét mức độ trung thực và hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính, để từ đó đưa ra ý kiến nhận xét của mình. Trong nền kinh tế thị trường phát triển cao, chức năng này giữ vị trí đặc biệt quan trọng ở cả khu vực công cộng lẫn khu vực kinh doanh:
1/ Ở khu vực công cộng (đơn vị hành chính sự nghiêp̣ )
Bao gồm các xí nghiệp công, các đơn vị sự nghiệp và các cá nhân hưởng thụ ngân sách nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực như phúc lợi xã hội, đường xá cầu cống, giao thông công chính…Trong khu vực này, chức năng xác minh được thực hiện tương tự nhau nhưng chức năng “bày tỏ ý kiến” thể hiện dưới hai mức độ:
-Chức năng xác minh ở mức độ cao:Gắn liền giữa việc kiểm tra xác minh tính trung thực của các thông tin tài chính với việc xử lý các sai phạm bằng việc đưa ra phán quyết như một quan tòa. Ví dụ:
+ Ở Đức: Mức độ này được thể hiện thông qua Ủy ban kiểm toán. Ủy ban kiểm toán được thành lập dựa trên quyền lợi của người nộp thuế, có nhiệm vụ xem xét tài chính Liên bang có tuân theo chuẩn mực, tiết kiệm và hiệu quả không. Chức năng của ủy ban này là “báo cáo nhận xét kiểm tra đặc biệt”, ủy ban này quan tâm đến thuế và những phê phán về thuế. Kiểm toán viên được quyền đòi hỏi những người quản lý số tiền hàng tỷ đồng (do người đóng thuế nộp) trong các quyết định của mình phải đặt tính hiệu quả và tiết kiệm lên hàng đầu.
+ Ở Pháp: Mức độ này thể hiện thông qua Tòa thẩm kế. Cơ quan kiểm toán Nhà nước với mục tiêu đặt ra là xác minh tính chính xác và hợp lệ của các tài liệu thu chi và quản lý ngân sách có quyền kiểm tra các tài liệu và tình hình quản lý của tổ chức sử dụng Ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, cơ quan này có quyền xét xử như một quan tòa bằng cách đưa ra các phán quyết.
- Chức năngkiểm toán ở mức độ thấp
Thông qua hình thức tư vấn. Mức độ này phù hợp với hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Châu Á-Thái Bình Dương.
Khác với các nước Tây Âu, các nước Bắc Mỹ và nhiều nước ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, chức năng“bày tỏ ý kiến” được thực hiện bằng hình thức tư vấn, các kiểm toán viên sẽ đưa ra lời khuyên, đưa ra kiến nghị trong việc xử lý các sai phạm hoặc củng cố các hoạt động.