Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu - 12

mang tính phức tạp để đảm bảo tính chính xác, hiệu quả của việc điều tra. Mặt khác, cũng cần có các quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan điều tra khi không hoàn thành việc điều tra đúng thời hạn để tăng trách nhiệm của các điều tra viên.

3.2.2. Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý nhà nước

Để có thể đưa ra các biện pháp điều tiết thị trường kinh doanh xăng dầu một cách hiệu quả, Nhà nước cần xác định việc can thiệp vào thị trường kinh doanh xăng dầu ở mức độ nào và thể hiện rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh thị trường này. Nhà nước cần tránh tình trạng quy định hoạt động kinh doanh xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường, đưa xăng dầu ra khỏi Luật Giá, nhưng chính Nhà nước lại đóng vai trò định giá sản phẩm xăng dầu trên thị trường. Nếu thị trường kinh doanh xăng dầu chưa có được sự cạnh tranh lành mạnh thực sự, Nhà nước có cơ sở để can thiệp thông qua các biện pháp điều tiết nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế và bảo vệ phúc lợi của người tiêu dùng thông qua điều tiết về mức giá, về chất lượng dịch vụ và về quy định gia nhập - rút lui khỏi hoạt động kinh doanh xăng dầu, tuy nhiên cần đảm bảo được sự ổn định và phát triển bền vững của thị trường.

Bàn về thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh, ở một số nước khác, cơ quan quản lý cạnh tranh được trao cho những thẩm quyền đủ để họ có thể điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh một cách độc lập, ví dụ như ở Pháp, cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền từ việc điều tra đến xét xử. Bên cạnh đó, ý kiến tư vấn của cơ quan này cũng rất được coi trọng, thậm chí là trong quá trình xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật thì ý kiến tư vấn của cơ quan quản lý cạnh tranh là thủ tục bắt buộc phải có. Nhìn lại thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam, căn cứ vào Quyết định số 848/QĐ-BCT ngày 05/02/2013 của Bộ Công thương quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh, Cục

Quản lý cạnh tranh là cơ quan thực hiện rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào quy định trên thì dường như Cục Quản lý cạnh tranh được trao cho rất nhiều quyền hạn. Tuy nhiên, việc trao cho một cơ quan như trên rất nhiều nhiệm vụ khó, phức tạp trong khi chưa có các kế hoạch, chiến lược đào tạo đội ngũ nhân lực có chất lượng đủ để đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ việc mang tính quốc tế đã khiến cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh gặp nhiều khó khăn. Trong những năm vừa qua, dường như thấy vai trò quản lý nhà nước của Cục Quản lý cạnh tranh được thể hiện rõ ràng hơn so với vai trò là một cơ quan thụ lý, điều tra, xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Một trong số các nguyên nhân chính là do Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan trực thuộc Bộ Công thương, người đứng đầu cơ quan này do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương.

Còn đối với Hội đồng cạnh tranh, căn cứ quy định tại Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập, có chức năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh, các thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương)[11]. Như vậy, Hội đồng cạnh tranh vẫn chưa có sự độc lập một cách hoàn toàn khỏi cơ quan quản lý nhà nước – điều kiện để đảm bảo sự công bằng, vô tư của một cơ quan thực hiện chức năng tài phán. Mặt khác, hiện nay, các thành viên của Hội đồng cạnh tranh đều là thành viên kiêm nhiệm và đều công tác tại các cơ quan quản lý nhà nước (chủ yếu là Bộ Công thương). Vì vậy, việc đảm bảo sự độc lập của Hội đồng cạnh tranh là rất khó khăn.

Thực tế trên cho thấy, để có thể nâng cao hiệu quả hoạt dộng của các cơ quan quản lý cạnh tranh, cần phải xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh được trao cho đủ quyền hạn để điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh một cách độc lập. Mô hình thích hợp nhất để thỏa mãn yêu cầu này đó là cơ quan quản lý cạnh tranh phải là cơ quan ngang Bộ, đồng thời không tách thành cơ quan quản lý cạnh tranh riêng và Hội đồng cạnh tranh riêng. Một số ý kiến cho rằng, việc tách thành cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh sẽ đảm bảo được sự độc lập trong quá trình điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh, tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, cả hai cơ quan đều thiếu sự độc lập đối với nhau và đối với các cơ quan Nhà nước khác trong quá trình tố tụng cạnh tranh, do đó việc tách thành hai cơ quan riêng rẽ như hiện nay chưa mang lại hiệu quả thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường hiệu quả.

3.2.3. Tăng cường sự minh bạch của thị trường

Để kiểm soát hiệu quả các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, cần phải đạt được sự công khai, minh bạch cả từ phía Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước cần công khai minh bạch chính sách quản lý giá xăng dầu, yêu cầu doanh nghiệp thông tin trung thực về thực trạng hoạt động (có kiểm soát) và cần chỉ rõ cả quyền lợi, nghĩa vụ chính đáng của người tiêu dùng. Điều này sẽ làm tăng cường trách nhiệm, hoạt động giám sát lẫn nhau của nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mỗi bên.

Mặt khác, giữa các cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh xăng dầu, đặc biệt là Bộ Tài chính và Bộ Công thương cần đưa ra những quy định hướng dẫn liên quan đến thị trường này một cách thống nhất, phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan để tránh sự chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm như đã từng xảy ra. Ngoài ra, giữa các cơ quan này cũng cần có sự thống nhất khi ban hành các văn bản hướng dẫn đối với thị trường kinh doanh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

xăng dầu, đặc biệt trong hoàn cảnh Nghị định số 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu đã được ban hành ngày 03/9/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/11/2014.

3.2.4. Đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong thị trường kinh doanh xăng dầu

Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu - 12

Thứ nhất, cho phép các doanh nghiệp từ bên ngoài gia nhập thị trường Việt Nam

Về lý thuyết, các doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện gia nhập thị trường xăng dầu được quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP thì có thể được tham gia kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên, rào cản gia nhập thị trường đối với các doanh nghiệp chính là các điều kiện về kho cảng, bến bãi khi tham gia thị trường này. Ví dụ tại Điều 7 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về điều kiện đối với thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu thì thương nhân muốn kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu thì phải có cầu cảng chuyên dụng nằm trong hệ thống cảng quốc tế của Việt Nam, có kho tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu.v.v. Đây là những điều kiện mà thường chỉ có các doanh nghiệp có vốn sở hữu nhà nước mới đủ khả năng về mặt tài chính, thủ tục hành chính để đáp ứng, còn các doanh nghiệp khác, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài sẽ phải trải qua hàng loạt thủ tục hành chính để đáp ứng được điều kiện về cầu cảng và kho tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu. Thực tế này đặt ra yêu cầu cần có cơ chế tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp có đủ thực lực tham gia thị trường kinh doanh xăng dầu. Khi các đối tượng tham gia thị trường đa dạng hơn sẽ mang lại hai lợi ích lớn. Người tiêu dùng sẽ không còn phải chịu cảnh các doanh nghiệp trong nước đồng loạt tăng giá, hoặc cảnh các đại lý găm hàng lại chờ tăng giá nữa. Thay vào đó, họ sẽ có quyền lựa chọn doanh nghiệp có chất lượng phục vụ tốt hơn, giá cả hợp lý hơn. Mặt

khác, các doanh nghiệp nhà nước cũng sẽ phải vận động nhiều hơn để thay đổi các phương thức kinh doanh lạc hậu, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng phục vụ để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Khi thực hiện việc mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài, cần phải lưu ý để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước ở một mức độ nhất định, để tránh khả năng doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng khả năng vốn, khoa học kỹ thuật để mua lại các doanh nghiệp trong nước.

Thứ hai, Nhà nước cần giảm dần sự can thiệp vào thị trường kinh doanh xăng dầu để phù hợp với các quy định của pháp luật

Mức độ can thiệp của Nhà nước vào thị trường kinh doanh xăng dầu có thể còn phụ thuộc vào việc thị trường có tồn tại sự độc quyền hay không. Nếu trên thị trường tồn tại doanh nghiệp độc quyền hoặc doanh nghiệp được sinh ra để thực hiện sứ mệnh chính trị thì việc can thiệp vào thị trường này là cần thiết. Tại Việt Nam, khi nền kinh tế chưa phát triển, thành phần kinh tế nhà nước được coi là “rường cột” của nền kinh tế, thực hiện nhiệm vụ mang tính chính trị sâu sắc. Tư duy này vẫn còn kéo dài cả khi chúng ta mở cửa nền kinh tế, để nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, cổ phẩn hóa các doanh nghiệp nhà nước. Tư duy này cũng được thể hiện trong thị trường kinh doanh xăng dầu. Sau khi để thị trường này vận hành theo cơ chế thị trường, số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường này ngày càng tăng, về lý thuyết đã có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau, Nhà nước đã ban hành văn bản về việc để thị trường kinh doanh xăng dầu tự vận động theo cơ chế thị trường, mà cụ thể là, Quyết định số 79/2008/QĐ-BTC Ngày 16/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về cơ chế quản lý, điều hành giá bán xăng dầu. Về mặt lý thuyết là vậy, nhưng thực tế cho đến nay, Nhà nước vẫn can thiệp trực tiếp vào thị trường xăng dầu thông qua cơ chế định giá xăng dầu. Điều này đã tạo ra sự lúng túng khi áp dụng pháp luật. Sự can thiệp bằng mệnh lệnh hành

chính vào thị trường vốn nhiều biến động như thị trường kinh doanh xăng dầu cũng đã khiến cho hoạt động kinh doanh của thị trường trong nước không bắt kịp các thay đổi của thị trường thế giới. Vì vậy, một khi đã xác định về mặt chủ trương, pháp luật về việc để thị trường kinh doanh xăng dầu vận động theo cơ chế thị trường, Nhà nước cần cụ thể hóa chủ trương này bằng các hành động cụ thể. Nhà nước có thể áp dụng mức giá trần đối với thị trường xăng dầu để đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng, sự linh hoạt khi định giá của các doanh nghiệp, đồng thời tạo sự cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp, góp phần nâng cao tính cạnh tranh của thị trường, nâng cao hiệu quả của thị trường kinh doanh xăng dầu cũng như của nền kinh tế.

Tiểu kết Chương 3


Về nguyên tắc, các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường sẽ trở thành đối tượng kiểm soát của Luật Cạnh tranh bởi giá cả do doanh nghiệp này đưa ra bao giờ cũng cao hơn và đứng ở một góc độ nào đó sản lượng sẽ thấp hơn thị trường có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh tham gia. Điều này dễ dẫn tới tổn thất về phúc lợi xã hội và nguồn lực xã hội sẽ không được sử dụng một cách tối ưu. Tuy nhiên, Ở Việt Nam, thị trường xăng dầu vẫn đang do các doanh nghiệp lớn có vốn sở hữu nhà nước nắm giữ, vì vậy, vẫn còn có lúc, có nơi coi thường khách hàng, cho đến nay, chúng ta chưa có một cơ chế hữu hiệu để giám sát vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của ngành này.

Để kiểm soát hiệu quả các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, cần phải đạt được sự công khai, minh bạch cả từ phía Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước cần công khai minh bạch chính sách quản lý giá xăng dầu, yêu cầu doanh nghiệp thông tin trung thực về thực trạng hoạt động (có kiểm soát) và cần chỉ rõ cả quyền lợi, nghĩa vụ chính đáng của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần can thiệp thông qua các biện pháp điều tiết nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế và bảo vệ phúc lợi của người tiêu dùng thông qua điều tiết về mức giá, về chất lượng dịch vụ và về quy định gia nhập - rút lui khỏi hoạt động kinh doanh xăng dầu.

KẾT LUẬN


Kết quả thu được sau khi thực hiện nghiên cứu đề tài “Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu” cho phép rút ra một số kết luận sau đây:

1. Theo xu hướng phát triển, doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh đều mong muốn phát triển hơn nữa thế lực của mình, nhất là những doanh nghiệp có thị phần lớn. Tuy nhiên, không thể đảm bảo một doanh nghiệp tham gia thị trường lúc nào cũng thực hiện kinh doanh một cách lành mạnh và luôn luôn tuân thủ pháp luật. Vì vậy, với nỗ lực xây dựng một thị trường kinh doanh lành mạnh, công bằng, bình đẳng, pháp luật cạnh tranh cần tạo được hành lang pháp lý an toàn và hiệu quả, đặc biệt chú ý tới cơ chế phát triển hoạt động của các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Một trong những giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao môi trường kinh doanh là kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường rất dễ dẫn tới tình trạng lạm dụng vị trí đó gây ảnh hưởng tới đối thủ cạnh tranh cũng như người tiêu dùng. Vì vậy, kiểm soát và xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng được pháp luật cạnh tranh quy định nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử. Với tư cách là một chế định của pháp luật cạnh tranh, các quy định pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường phải thể hiện rõ được vai trò trong việc kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp nhằm hạn chế cạnh tranh, từ đó, duy trì trật tự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh.

2. Từ khi các hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam được vận hành theo cơ chế thị trường, nước ta đã có nhiều văn bản được ban hành để đảm bảo sự ổn định và phát triển của thị trường này. Sự can thiệp của Nhà nước và các rào cản cạnh tranh trên thị trường này đã có tác động đến việc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/12/2023