Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Khung Chính Sách Fdi Tại Việt Nam.‌‌


hoặc các nguồn cung cấp quan trọng cho việc xây dựng và điều hành dự án của họ, cũng như việc xuất khẩu và phân phối sản phẩn của họ tại Việt Nam.

Doanh nghiệp nước ngoài và các thành viên hợp tác kinh doanh có thể mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở các tỉnh, thành phố bên ngoài nơi văn phòng chính đóng để điều hành các hoạt động kinh doanh phù hợp với các mục tiêu trên giấy phép đầu tư. Những nơi nào cần thiết cho việc xuất khẩu, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nước ngoài để quản lý vận hành các hoạt động kinh doanh thương mại, thị trường và tiêu thụ hàng hoá.

Các thành quả chính sách khác

Trong suốt 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã không ngừng được mở rộng và phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ ngày càng quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước.

+)Đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập

Sau 20 năm tiến hành mở cửa, đổi mới mạnh mẽ nền kinh tế, đầu tư nước ngoài đã tác động trực tiếp đến việc cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp. Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào sự gia tăng giá trị nền kinh tế.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Sau 20 năm, Việt Nam nhận được gần 98 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư với 9.500 dự án. Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đồng thời là cầu nối quan trọng giữa nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương


mại, du lịch, dịch vụ và tạo điều kiện để Việt Nam chủ động hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Đặc biệt, trong thời gian qua, đầu tư nước ngoài đã góp phẩn thay đổi cục diện, gương mặt và đời sống kinh tế, xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương từ một tỉnh thuần nông trở thành tỉnh công nghiệp phát triển năng động và hiệu quả như Vĩnh Phúc, Bình Dương.

+) Cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư

Khung chính sách FDI của Việt Nam - 10

Chính phủ đã xác định cải cách thủ tục hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của cải cách hành chính. Để thực hiện nhiệm vụ này, ngày 10/1/2007, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (Đề án 30) nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của thủ tục hành chính; tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; góp phần phòng, chống tham nhũng và lãng phí.

Việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án 30 đã thể hiện quyết tâm chính trị của người đứng đầu Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Với cách làm mới cùng với sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, của lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương cùng với sự tham gia tích cực của mọi thành phần kinh tế trong xã hội, chắc chắn mục tiêu của Đề án 30 sẽ đạt được, tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước

+) Đa dạng hóa hình thức sử dụng vốn cho đầu tư mới và đầu tư chiều sâu


Vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Đến nay, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tham gia vào hầu hết các ngành sản xuất công nghiệp và có tác động tích cực trong phát triển sản xuất của các ngành này. Có 3 nhóm giải pháp trong thời gian tới nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào công nghiệp. Đó là đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư; đẩy mạnh sản xuất công nghiệp; đẩy mạnh xuất khẩu. Trong đó đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp; đồng thời tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh như chế biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, giầy dép, cơ khí đóng tầu, chế tạo thiết bị, gia công cơ khí, lắp ráp cơ - điện tử, phương tiện vận tải, đồ gỗ cũng như đẩy mạnh tiến độ đầu tư các dự án trọng điểm, đa dạng hóa hình thức sử dụng vốn cho đầu tư mới và đầu tư chiều sâu.


+) Linh hoạt các hình thức hợp tác đầu tư kinh doanh với đối tác nước ngoài

Trong điều kiện đất nước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin đã và đang tạo ra những cơ hội mới cho việc thu hút đầu tư nước ngoài trong ngành truyền thông và công nghệ thông tin Việt Nam.

Các doanh nghiệp viễn thông, internet Việt Nam cần vận dụng linh hoạt và đan xen các hình thức liên doanh, cổ phần, Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) trong việc hợp tác đầu tư với đối tác nước ngoài trên cơ sở bảo đảm chủ quyền quốc gia, tính chủ động trong kinh doanh.

+) Đầu tư nước ngoài là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ

Nhiều doanh nghiệp trong nước, do thúc ép của cạnh tranh bởi các sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã cố gắng đổi mới công nghệ bằng việc nhập khẩu các thiết bị và công nghệ mới để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý.


Đầu tư nước ngoài là một kênh quan trọng trong chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ, góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

+) Tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư

Để bảo đảm cho thị trường vốn, thị trường tài chính trong nước phát triển ổn định, Chính phủ tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn cho mọi thành phần kinh tế, tạo niềm tin của các nhà đầu tư đối với chính sách của Chính phủ. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt các tổng công ty nhà nước lớn, các tập đoàn, các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước để đa dạng hóa hình thức sở


hữu, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính./.

Tính từ năm 1998 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đạt khoảng 40 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 và duy trì ở mức 17-18% tổng vốn đầu tư từ năm 2001 đến nay. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm gần đây ngày càng tăng cao. Trong 5 năm 2001-2005, Việt Nam thu hút 18,5 tỷ USD; năm 2006 đạt trên 12 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng 20 tỷ USD, tăng 70% so với 2006, gần bằng tổng mức đầu tư nước ngoài của 5 năm 2001- 2005 và chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua.

4.2. Hạn chế:

Tuy những nỗ lực của Chính phủ và Nhà nước đã tạo nên một bước chuyển biến quan trọng cho hoạt động thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong cơ chế quản lý đầu tư, trong cơ chế kiểm tra giám sát tài chính, còn những chênh lệch lớn và khác biệt nhiều trong chính sách thu hút đầu tư đối với các khu vực kinh tế khác nhau, tạo nên tính thiếu nhất quán trong thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư. Chưa kể đến những yếu tố về chi phí đầu vào, về nguồn lực lao động cũng như quản lý, trong thực tế chưa được cải thiện nhiều. Một số bất cập sau đây cũng là đặc trưng chung cho nhiều địa phương:

Hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư còn thiếu đồng bộ, chưa cụ thể, còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo. Có nhiều xung đột giữa Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp. Cụ thể, liên quan đến vấn đề hoạt động của doanh nghiệp, đáng lẽ Luật Đầu tư chỉ cần điều chỉnh việc cấp giấy chứng nhận đầu tư nhằm xác nhận những ưu đãi mà dự án được hưởng. Thế nhưng, trên thực tế, Luật Đầu tư lại điều chỉnh cả việc cấp giấy chứng nhận đăng kí


kinh doanh cho doanh nghiệp bằng quy định cấp giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời là giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.

Việc thực thi pháp luật, chính sách còn tuỳ tiện, chưa nhất quán. Mặc dù môi trường pháp lý cho FDI đã cải thiện nhiều, đặc biệt là trong vòng 1 năm trở lại đây, nhiều nhà đầu tư nước ngoài vẫn xem Việt Nam vẫn là nơi có độ rủi ro cao do chính sách và luật lệ thiếu ổn định, hay thay đổi bất ngờ, và do đó không dự đoán được và vì vậy vẫn chưa thể bằng một số nước ASEAN khác và Trung Quốc được. Kết quả FDI vào Việt Nam vẫn rất nhỏ so với các nước trong khu vực. Chẳng hạn, hồi tháng 9 năm 2002, các hãng lắp ráp xe máy Nhật Bản đã bất bình trước việc Chính phủ Việt Nam đột ngột áp đặt hạn ngạch nghiêm ngặt hơn đối với phụ tùng nhập khẩu. Sau đó vào tháng 12, các hãng chế tạo xe hơi nước ngoài lại choáng váng khi Việt Nam lại thông báo sẽ tăng gấp đôi thuế quan đối với phụ tùng nhập khẩu lên 40%. Tuy cả hai quyết định sau đó đều được bãi bỏ, nhưng việc làm đó càng tô đậm thêm hình ảnh của một môi trường đầu tư không dự đoán được của Việt Nam. Bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo và thủ tục hành chính quá phức tạp, nhất là các thủ tục liên quan đến triển khai dự án đầu tư như đất đai, xây dựng, xuất nhập khẩu, hải quan... Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2005 đã tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh doanh trong nền kinh tế. Hai luật này đã đánh dấu một bước phát triển mới, một bước đột phá quan trọng trong hệ thống thể chế. Tuy nhiên, một số những bất cập đã bộc lộ rõ. Đó là sự hoành hành của giấy phép con. Năm 2000, có 145 giấy phép con được bãi bỏ, thế nhưng đến nay số lượng giấy phép con còn rất nhiều, không thể kiểm soát nổi. Số lượng bãi bỏ rất ít mà số

giấy phép con không cần thiết lại tăng thêm.

Hiện nay về cơ chế một cửa thì chúng ta mới chỉ đặt ra trên lý thuyết mà chưa đi vào thực tiễn. Thực tế thì ba cửa là cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh


doanh và công an chưa thực sự là một, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan này.

Các tiêu chí cấp phép và từ chối cấp phép đôi khi còn thiếu minh bạch, chưa rõ ràng. chưa xác định và quy định rõ về “dự án đầu tư có điều kiện”, các điều kiện đầu tư tương ứng đối với các dự án đó. Chưa xác định rõ nội dung và hình thức thể hiện của “dự án đầu tư” theo quy định của Luật Đầu tư. Trên thực tế, có ba cách hiểu và áp dụng khác nhau. Cách hiểu thứ nhất là dự án đầu tư được được hiểu là “Giấy đề nghị đăng ký đầu tư” đối với các dự án có quy mô dưới 300 tỷ đồng; và đối với các dự án trên 300 tỷ đồng, thì giấy đề nghị đăng ký đầu tư và giải trình kinh tế kỹ thuật. Cách hiểu thứ hai là nghiên cứu khả thi và cách hiểu thứ ba là gồm thiết kế cơ sở và thuyết minh dự án như quy định của pháp luật về xây dựng công trình. Cách hiểu chưa thống nhất đương nhiên áp dụng không thống nhất, tuỳ ý và thậm chí trái vơi tinh thần của luật.

Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực chưa theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và các yêu cầu về mặt xã hội. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề còn thiếu cả về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp.


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG CHÍNH SÁCH FDI TẠI VIỆT NAM.‌‌


I. CHIẾN LƯỢC THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010

1. Mục tiêu

1.1Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006- 2010 là:

“Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”.

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5 năm 2006-2010 là đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) lên gấp 2,1 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.050-1.100 USD; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2006-2010 đạt 7,5-8%, phấn đấu đạt trên 8%.Ước tính nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010 là 140 tỷ USD (giá năm 2005), chiếm 40% GDP, trong đó, nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm khoảng 35%.

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí