Số Bệnh Nhân Và Thời Gian Phòng Tư Vấn Mở Cửa Theo Ngày


vấn không lưu lại thông tin giờ mở cửa từng ngày nên thông tin này nhóm nghiên cứu chỉ ghi nhận được trong 11 ngày có mặt đầy đủ cả hai buổi.

Đặc điểm về thời gian tư vấn và số bệnh nhân vào tư vấn

Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, số bệnh nhân vào phòng tư vấn có xu hướng giảm dần theo thời gian (hình 3.2). Trong tháng 3 số bệnh nhân vào tư vấn ở mức cao, có ngày lên tới 30 hoặc 40 bệnh nhân. Đến 2 tuần đầu tháng 4 số bệnh nhân vào tư vấn giảm, ngày nhiều nhất cũng chỉ có 12 bệnh nhân.

45

40

40

36

34

35

30

25

25

20

16

17

16

15 12

11

9

10

7

9 8 9

5

5

5

5

2

3 3

0

Số bệnh nhân

Số bệnh nhân vào tư vấn dao động không theo quy luật nhất định. Trong tháng 3 số bệnh nhân dao động rất lớn, ngày nhiều nhất có thể lên tới 40 bệnh nhân, trong khi đó ngày ít nhất chỉ có 2 bệnh nhân. Tuy nhiên đến đầu tháng 4, số bệnh nhân vào tư vấn ít dao động hơn, nhiều nhất là 12 bệnh nhân và ít nhất là 3 bệnh nhân. Bảng 3.8 cho thấy số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày dao động lớn (giá trị trung vị là 9, khoảng tứ phân vị: 5 – 16).


Hình 3.2. Số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày


Bảng 3.8. Số bệnh nhân và thời gian phòng tư vấn mở cửa theo ngày


Thông số

Trung vị

(Median)

Khoảng tứ phân

(IQR)

Số bệnh nhân tư vấn trong ngày

9

5 – 16

Thời gian phòng tư vấn mở cửa (h)

2,75

2,3 – 4,5

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Khảo sát nhu cầu tư vấn của bệnh nhân và thực trạng tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc Bảo hiểm y tế bệnh viện Bạch Mai - 7


5

4.5

4

3.5

3

2.5

2

1.5

1

0.5

0

2

Thời gian

Số bệnh nhân

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

4 4.5 4.8 2.5 2.7 2.8 4.5 1 4.5 2

40 16 36 2 12 3 11 5 9 8

11

1.8

9

50

45

40

35

30

25

20

15

10

5

0

Thời gian tư vấn (giờ)

Số bệnh nhân tư vấn

Đi tìm hiểu nguyên nhân cho xu hướng giảm này nhóm nghiên cứu đã xem xét sự tương quan giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa với số bệnh nhân vào tư vấn trong 11 ngày ghi nhận được thời gian phòng tư vấn mở cửa (hình 3.3 và hình 3.4 thể hiện rõ sự tương quan này).


Hình 3.3. Thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày

Chú thích:


Kí hiệu

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

Ngày

13/3

14/3

15/3

18/3

29/3

01/4

04/4

09/4

10/4

11/4

12/4


45

40

35

30

25

20

15

10

5

0

0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 4.5 5 5.5

Thời gian phòng tư vấn mở cửa (giờ)

Số bệnh nhân

Hình 3.4. Tương quan giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh

nhân tư vấn

Hình 3.4 thể hiện sự tương quan giữa số bệnh nhân vào tư vấn và thời gian phòng tư vấn mở cửa. Hình 3.3 cho thấy số bệnh nhân vào tư vấn dao động cùng chiều với thời gian phòng tư vấn mở cửa. Nhưng xét về mức độ dao động, thời gian phòng tư vấn mở cửa có xu hướng dao động mạnh vào đầu tháng 4. Trong khi đó số bệnh nhân vào tư vấn dao động nhiều trong tháng 3, đến đầu tháng 4 ổn định và ít dao động hơn. Như vậy, thời gian phòng tư vấn mở cửa không ổn định, và xu hướng thời gian đầu tháng 4 có ảnh hưởng tới số lượng bệnh nhân vào tư vấn.

Tương quan giữa hoạt động tư vấn và hoạt động cấp phát thuốc BHYT

Bảng 3.9 thể hiện tương quan giữa hai hoạt động cấp phát thuốc và tư vấn thuốc cho bệnh nhân BHYT. Kết quả cho thấy giá trị trung vị của số bệnh nhân lĩnh thuốc trong 1 ngày là 736 (IQR: 676 – 789), trong khi giá trị trung vị của số bệnh nhân vào tư vấn là 9 (IQR: 5 – 16). Tỷ lệ giữa số bệnh nhân tư vấn và số bệnh nhân lĩnh thuốc có trung bình là 0,02. Tỷ lệ này rất thấp và dao động khá nhiều theo ngày.

Thời gian bệnh nhân lĩnh thuốc trong 1 ngày là 8 giờ, trong khi thời gian phòng tư vấn mở cửa có trung vị 2,8 giờ. Tỷ lệ giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa và thời gian bệnh nhân lĩnh thuốc có trung bình là 0,4.


Bảng 3.9. Tương quan giữa hoạt động tư vấn và hoạt động cấp phát thuốc


Thông số

Trung vị

(Median)

Khoảng tứ

phân (IQR)

Số bệnh nhân tư vấn trong ngày

9

5 – 16

Số bệnh nhân lĩnh thuốc trong ngày

736

676 – 789

Thời gian phòng tư vấn mở cửa (h)

2,8

2,3 – 4,5

Thời gian bệnh nhân lĩnh thuốc trong ngày (h)

8

_

Tỷ lệ giữa tổng số bệnh nhân được tư vấn và tổng

số bệnh nhân lĩnh thuốc theo ngày (trung bình)

0,02

_

Tỷ lệ giữa tổng thời gian phòng tư vấn mở cửa và

tổng thời gian lĩnh thuốc theo ngày (trung bình)

0,4

_


3.3 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi tư vấn

Từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013 nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn được 50 bệnh nhân sau khi ra khỏi phòng tư vấn về mức độ hài lòng sau tư vấn (bảng 3.10)

Trong 50 bệnh nhân được phỏng vấn, hầu hết bệnh nhân hài lòng với những gì được tư vấn (82,0%). Các bệnh nhân đều tin tưởng và làm theo những gì dược sĩ tư vấn (98,0%). Sau khi được tư vấn, đa số các bệnh nhân được phỏng vấn đều cho rằng sẽ vào tư vấn tiếp nếu khám lần sau (76,0%), sẽ vào tư vấn khi có thắc mắc (14,0%).


Bảng 3.10. Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau tư vấn


Thông số


Số bệnh nhân

(%)


Không

0 (0,0)

Bệnh nhân hài lòng với việc tư

vấn (n=50)

Bình thường

9 (18,0)

Hài lòng

32 (64,0)


Rất hài lòng

9 (18,0)

Bệnh nhân tin tưởng và làm theo

những gì được tư vấn (n=50)

49 (98,0)

Không ghi nhận được

1 (2,0)


Khác

0 (0,0)

Bệnh nhân lần sau khám muốn tư

vấn tiếp (n=50)

38 (76,0)

Có thắc mắc mới vào khám

7 (14,0)


Không muốn vào tư vấn tiếp

1 (2,0)


Không ghi nhận được

4 (8,0)


CHƯƠNG IV: BÀN LUẬN

4.1 Nhận thức và nhu cầu tư vấn của bệnh nhân

Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu là bệnh nhân cao tuổi và chủ yếu là cán bộ về hưu, khám lại theo chương trình để điều trị một số bệnh mãn tính, trong đó phổ biến nhất là tăng huyết áp (55,0%), tim mạch (27,0%) và đái tháo đường (25,0%). Trong 100 bệnh nhân, có 34 bệnh nhân mắc kèm từ 2 bệnh trở lên. Nhóm bệnh nhân cao tuổi là đối tượng dễ mắc nhiều bệnh cùng một lúc, do đó phải dùng nhiều thuốc đồng thời. Mặt khác, tình trạng đa bệnh lí dẫn đến rối loạn hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể như suy giảm trí nhớ (hay quên dùng thuốc, nhầm lẫn liều), mắt kém (đọc đơn thuốc kém, đọc lẫn, nhất là khi đơn chữ ghi nhỏ khó đọc) [1]. Vì vậy, nắm bắt được nhận thức, kĩ năng về việc dùng thuốc cũng như nhu cầu tư vấn của nhóm bệnh nhân này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao chất lượng tư vấn.

Nhận thức của bệnh nhân về việc sử dụng thuốc

Đối với việc phân biệt nhận biết các loại thuốc, phần lớn bệnh nhân dựa vào cách đối chiếu với tên thuốc trong đơn (82,0%), các cách dựa vào màu của hộp hoặc vỉ thuốc, dùng giấy dán kí hiệu riêng cho từng loại thuốc, hay hỏi người khác ít được bệnh nhân dùng hơn. Việc đối chiếu với đơn thuốc sẽ thuận lợi khi bệnh nhân mắt tinh, đơn thuốc in vi tính dễ đọc dễ nhìn. Thực tế tại bệnh viện Bạch Mai, hệ thống kê đơn điện tử cho bệnh nhân ngoại trú đã được triển khai, không có tình trạng đơn viết tay, chữ khó đọc. Khi tư vấn, dược sĩ nói cho bệnh nhân tên từng loại thuốc sẽ giúp bệnh nhân làm quen với việc nhận dạng các loại thuốc của họ [6]. Đối với những bệnh nhân mắt kém, khả năng đọc,viết hạn chế thường sử dụng 3 cách: dựa vào màu hộp hoặc vỉ thuốc, dùng giấy dán kí hiệu từng loại hoặc hỏi người khác nhiều hơn. Trong quá trình tư vấn, dược sĩ nên nắm bắt được khả năng nhìn, đọc, viết của bệnh nhân để đưa ra cách tư vấn hợp lí, có thể là hướng dẫn cách đối chiếu tên thuốc, hoặc có thể là đưa ra một số gợi ý khác nếu bệnh nhân không có khả năng đọc được tên thuốc.


Phần lớn bệnh nhân dựa vào đơn để nhớ giờ uống thuốc (38,0%), một số ít bệnh nhân dùng cách khác như: viết vào giấy dán tường, soạn thuốc vào 3 hộp riêng cho 3 bữa sáng, trưa, tối, hay để thuốc nơi dễ nhìn, viết giờ uống lên hộp thuốc hoặc uống thuốc theo bữa ăn. Thực tế, tại phòng tư vấn sử dụng thuốc ở bệnh viện Bạch Mai đã được trang bị máy in các tờ giấy màu khác nhau tương ứng với từng thời điểm uống thuốc để dán lên hộp hoặc vỉ thuốc cho bệnh nhân. Các màu khác nhau giúp bệnh nhân phân biệt được các thuốc phải uống ở các thời điểm khác nhau. Nhóm bệnh nhân cao tuổi thường hay quên dùng thuốc hoặc nhầm lẫn liều [1]. Trong những trường hợp này, dược sĩ nên nắm bắt và dự đoán trước những tình huống tương tự có thể xảy ra để đưa ra gợi ý thích hợp cho bệnh nhân. Ví dụ,với bệnh nhân cao tuổi hay quên thì cách soạn thuốc vào 3 túi (hộp) cho sáng, trưa, tối nên được áp dụng. Theo cách này, bệnh nhân có thể biết mình đã dùng thuốc hay chưa, tránh trường hợp nhầm lẫn, uống thừa hoặc thiếu thuốc. Dược sĩ cũng có thể gợi ý cho bệnh nhân nhắc nhở người nhà kiểm soát việc dùng thuốc cho họ. Một số bệnh nhân cho rằng khi đến giờ phải uống thuốc mà chưa uống thì trong người có cảm giác khó chịu và chính điều này nhắc nhở bệnh nhân đi uống thuốc. Những ghi nhận này giúp dược sĩ có cái nhìn khái quát về đối tượng mình tư vấn để có đưa ra thông tin phù hợp nhất với bệnh nhân.

Cách xử trí khi bệnh nhân quên dùng thuốc là nội dung dược sĩ nên giải thích rõ ràng trước khi bệnh nhân rời khỏi phòng tư vấn [6]. Một nghiên cứu của Ascione đã phỏng vấn 187 bệnh nhân dùng thuốc tim mạch cho thấy bệnh nhân nhận thức nhiều nhất về chế độ và mục tiêu điều trị của thuốc, cách xử trí khi quên thuốc được nhận thức với tỷ lệ ít hơn [4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 25,0% bệnh nhân khi quên thuốc bỏ qua liều đó và chờ đến liều sau uống tiếp, 11,0% bệnh nhân uống ngay khi nhớ ra, không có bệnh nhân nào khi quên thuốc liên hệ với bác sĩ kê đơn. Bệnh nhân có thể không nhớ hết được những thông tin được tư vấn về cách sử dụng thuốc, khi đó có thể liên hệ với bác sĩ để hỏi lại. Nghiên cứu này cho thấy khi quên thuốc bệnh nhân thường tự mình giải quyết theo một hướng hoặc là bỏ qua liều thuốc đó hoặc uống ngay khi nhớ ra. Ở Việt Nam khi mô hình tư vấn thuốc do dược


sĩ đảm nhiệm vẫn chưa phổ biến thì liên hệ với bác sĩ là cách tốt nhất để hỏi rõ thông tin về thuốc của mình. Tuy nhiên hầu hết bệnh nhân còn có tâm lý e ngại, hoặc sợ làm phiền, làm mất thời gian của bác sĩ nên có thể không dám hỏi. Như vậy, bệnh nhân nên được dược sĩ tư vấn kiến thức sâu hơn để xử trí khi quên thuốc đối với các loại thuốc khác nhau. Dược sĩ khi tư vấn cũng nên nhấn mạnh về chế độ dùng thuốc tránh trường hợp để bệnh nhân không biết xử trí thế nào khi quên dùng thuốc.

Thức ăn và đồ uống có thể ảnh hưởng đến dược động học của thuốc, trong một số trường hợp có thể làm giảm tác dụng hoặc dẫn đến độc tính. Hiểu được mối liên hệ này dược sĩ có thể tư vấn chọn nước để uống thuốc, chỉ dẫn thời gian uống hợp lí và dặn dò bệnh nhân tránh những thức ăn, đồ uống có ảnh hưởng nhiều đến tác dụng và độc tính của thuốc [1]. Nghiên cứu này cho thấy 77,0% bệnh nhân ý thức tương tác thuốc – nước uống nên luôn uống thuốc với nước lọc, vẫn còn một số bệnh nhân vẫn dùng nước chè, nước vối, nước linh chi, nước hoa hòe để uống thuốc. Tỷ lệ này rất nhỏ nhưng dược sĩ cũng nên chú ý trong quá trình tư vấn để bệnh nhân dùng thuốc đúng cách.

Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy còn tới 25,0% bệnh nhân vẫn uống các thuốc cùng một lúc trong khi các thuốc được kê có thời điểm dùng khác nhau. Trong 100 bệnh nhân phỏng vấn, có 34 bệnh nhân mắc từ 2 bệnh trở lên, phải dùng nhiều thuốc đồng thời để điều trị các bệnh khác nhau trong thời gian dài. Mặt khác, khi các thuốc được dùng đồng thời có thể dẫn đến nguy cơ gặp tương tác thuốc và tác dụng không mong muốn [1]. Việc phải dùng nhiều thuốc cùng với sự phức tạp trong chế độ uống thuốc và thời gian điều trị dài có thể là rào cản tới sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân [24]. Bởi vậy khi tư vấn cho nhóm bệnh nhân này dược sĩ nên lập cho bệnh nhân lịch uống thuốc thật cụ thể sáng, trưa, chiều và thời điểm uống trước hay sau bữa ăn, đồng thời phải nhấn mạnh lợi ích của việc tuân thủ thuốc để bệnh nhân làm theo.

Về cách thức uống thuốc phần lớn bệnh nhân (75,0%) để nguyên viên khi uống, 13,0% bệnh nhân có bẻ một số thuốc trong khi uống. Nhóm nghiên cứu đã

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 29/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí