Kết cấu phóng sự ngắn truyền hình - 2


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận

Đề tài của luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử vừa là thế giới quan, vừa là phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu. Việc nghiên cứu còn phải dựa trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam về báo chí.

Đề tài luận văn kế thừa và phát huy sáng tạo thành quả nghiên cứu từ các công trình lý luận cơ sở về báo chí như lý luận báo chí truyền thông, lý luận báo chí truyền hình, lý luận về hoạt động sáng tạo tác phẩm truyền hình, lý luận về phóng sự truyền hình…

- Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát, thống kê… Do hoạt động sáng tạo phóng sự ngắn trong thực tế vẫn còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm cá nhân nên tác giả đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để thu thập ý kiến, quan điểm, kinh nghiệm nghề nghiệp từ các nhà báo, các phóng viên truyền hình. Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng phục vụ cho hoạt động nghiên cứu.


5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài

Trên cơ sở nhận diện đặc thù thể loại, đề tài tập trung phân tích sâu kết cấu phóng sự ngắn truyền hình. Qua đó đề xuất các dạng kết cấu phổ biến về hình thức và nội dung, góp phần hình thành cơ sở khoa học cho hoạt động nghiên cứu và sáng tạo phóng sự ngắn truyền hình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Kết cấu phóng sự ngắn truyền hình - 2

- Ý nghĩa lý luận

Bằng việc phân tích và đề xuất các dạng kết cấu của phóng sự ngắn truyền hình, tác giả hy vọng luận văn sẽ góp phần bổ sung vào hệ thống công trình nghiên cứu về phóng sự truyền hình nói chung và phóng sự ngắn nói riêng. Đây là sự nối tiếp cho hoạt động nghiên cứu phóng sự ngắn truyền hình đồng thời là cơ sở lý luận cho các công trình nghiên cứu tiếp theo ở những góc độ mới mẻ hơn.

- Ý nghĩa thực tiễn

Bằng việc chỉ ra dấu hiệu đặc thù và những dạng kết cấu về hình thức lẫn nội dung của phóng sự ngắn, tác giả hy vọng luận văn sẽ cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho hoạt động thực tiễn. Người làm phóng sự ngắn sẽ có thêm những nguyên tắc trong phát hiện đề tài, sự kiện, chi tiết, trong việc biểu thị quan điểm tư tưởng cũng như xây dựng kết cấu cho tác phẩm. Ngoài ra luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, hoạt động quản lý, biên tập, tổ chức sản xuất chương trình truyền hình…

Riêng đối với cá nhân tác giả, đề tài nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc trang bị cách nhìn, cách làm phóng sự ngắn, phục vụ thiết thực cho công việc thời sự ở một đài truyền hình địa phương.


7. Kết cấu luận văn

Luận văn gồm 108 trang. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung chính của luận văn bao gồm ba chương:

- Chương 1 : Nhận diện phóng sự ngắn truyền hình

- Chương 2: Kết cấu phóng sự ngắn truyền hình

- Chương 3: Ứng dụng phóng sự ngắn truyền hình và giải pháp nâng cao chất lượng thể loại


Chương 1‌

NHẬN DIỆN PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH


1.1. Phóng sự và phóng sự truyền hình

1.1.1. Phóng sự

Thuật ngữ phóng sự tiếng Pháp là Reportage, tiếng Anh là Report. Hai từ này có nguồn gốc từ tiếng La tinh là Reporto, có nghĩa là truyền đạt, báo tin, thông báo. Theo một số nhà nghiên cứu về báo chí truyền thông thì thể loại phóng sự ra đời đầu tiên ở châu Âu vào cuối thế kỷ XIX gắn liền với những thành tựu trong tiến trình đấu tranh vì tự do báo chí và sự phát triển vượt bậc của các tư tưởng dân chủ tiến bộ. Giáo sư Tiến sỹ Karel Storkan ( khoa Báo chí trường Đại học Sáclơ - Cộng hoá Séc ) cho rằng phóng sự xuất hiện đầu tiên là ở nước Pháp vào cuối thế kỷ XIX khi trên tờ Tin tức văn học lúc bấy giờ mở chuyên mục phóng sự với sự tham gia của những nhà văn có tiếng như Jean Cocteau, Georges Girard, Angdre Maurois… Cũng có ý kiến cho là phóng sự xuất hiện đầu tiên ở Anh, ở Mỹ, ở Nga… Tuy nhiên có một thực tế là vào đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 -1918), thể loại phóng sự mới được sử dụng rộng rãi trên mặt báo, với nhiều cách viết sinh động. Phóng sự không chỉ dừng ở việc đưa lại sự kiện mà còn đi sâu phân tích sự kiện bằng cách đưa ra các ý kiến khác nhau do phóng viên phỏng vấn. Tại một số nền báo chí đã xuất hiện những thiên phóng sự mang tầm vóc thời đại như “Mười ngày rung chuyển thế giới” (

John Reed), “Viết dưới giá treo cổ” ( Julius Fucik), “Qua dãy núi Alper” (Richard Halliburton)…

Ở Việt Nam cùng với sự du nhập của văn minh phương Tây theo bước chân quân xâm lược Pháp, báo chí Tiếng Việt và Tiếng Pháp đã xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Thể loại phóng sự được biết đến trên mặt báo vào đầu thế kỷ XX khi báo chí Tiếng Việt bắt đầu có sự “bừng nở” cả về số lượng đầu báo lẫn phong cách làm báo. Các phóng sự đề cập đến nhiều mặt trong đời sống, đặc biệt phát huy thế mạnh khi đi vào những góc khuất, những mặt trái của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Nhiều cây bút phóng sự tài năng được khẳng định như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp… nhiều thiên phóng sự nổi danh xuất hiện như “Tôi kéo xe”, “Cơm thầy cơm cô”, “Kỹ nghệ lấy tây”, “Việc làng”, “Ngoại ô”, “Hà Nội lầm than”…

Do hoàn cảnh lịch sử cụ thể và xu thế phát triển khác nhau của từng nền báo chí nên trong thực tế đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về phóng sự. Người Đức - những người nổi tiếng về tính chính xác và logic trong tư duy thì coi phóng sự đơn giản chỉ là " sự đưa tin". Họ luôn hướng tới yếu tố xác thực và ngắn gọn khi trình bày sự kiện. Người Pháp - những người hài hước và tế nhị coi phóng sự là điều tra, là khám phá những mới mẻ hấp dẫn của sự việc. Còn người Mỹ - những người nổi tiếng thực dụng lại đưa ra tiêu chí phóng sự ở góc độ mô tả, tường thuật. Trong cuốn " Người phóng viên toàn năng", các tác giả Tennesse và Jolian Narit cho rằng: " phóng sự là một bài tường thuật hoặc một bài báo được phát triển và xử lý một cách có tính văn học". [41, tr.37]. TS Đức Dũng trong tác phẩm “ Phóng sự báo chí hiện đại” định nghĩa: “ phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng trình bày diễn tả những sự kiện con người tình huống điển hình trong một quá trình phát sinh phát triển, đồng thời thẩm định hiện thực đó thông

qua cái tôi trần thuật vừa tỉnh táo lý trí, vừa cảm xúc với với một bút pháp giàu chất văn học”[12, tr.27]. Theo PGS.TS Dương Xuân Sơn ( trong tác phẩm: Thể loại báo chí chính luận nghệ thuật) thì “phóng sự là một thể loại báo chí, phản ánh những sự kiện, sự việc, vấn đề đang diễn ra trong hiện thực khách quan có liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người bằng phương pháp miêu tả hay tự thuật, kết hợp nghị luận ở mức độ nhất định. Trong phóng sự cái tôi trần thuật - nhân chứng khách quan rất quan trọng”.[41, tr.41]

Qua các ý kiến trên đây có thể thấy thể loại phóng sự là một thể loại năng động đa dạng có nhiều sự vận dụng trong thực tiễn. Những đặc điểm nổi bật của phóng sự đó là phản ánh sự kiện hiện tượng con người trong quá trình vận động biện chứng, sử dụng ngôn ngữ bút pháp linh hoạt uyển chuyển, thể hiện vai trò tích cực của cái tôi cá nhân trong việc quan sát phân tích mổ xẻ sự kiện hiện tượng.

Ngày nay phóng sự được đánh giá là thể loại “ xương sống” của các loại hình báo chí. Sở dĩ như vậy bởi phóng sự là thể loại xuất hiện thường xuyên trên mặt báo, chiếm lượng thông tin quan trọng trong cơ cấu thông tin của tờ báo. Đấy có thể là phóng sự sự kiện, phóng sự vấn đề, phóng sự điều tra, phóng sự chân dung, phóng sự về hoàn cảnh hiện trạng ( theo cách chia dựa trên cơ sở đối tượng phản ánh của TS Đức Dũng); có thể là phóng sự kinh tế, phóng sự chính trị xã hội, phóng sự miền đất lạ…( theo cách chia dựa trên tiêu chí nội dung của TS Nguyễn Thị Thoa). Hiếm có tờ báo nào lại không sử dụng thể loại phóng sự như một công cụ đắc lực và hiệu quả trong việc phân tích, phản ánh sự kiện. Thế mạnh của phóng sự là kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc mô tả với phân tích đánh giá, kết hợp vai trò năng động của cái tôi trần thuật với bút pháp linh hoạt, phóng túng. Do vậy phóng sự có

khả năng quyết định bản sắc diện mạo của từng tờ báo, tạo dựng uy tín nghề nghiệp cho từng nhà báo.


1.1.2.Phóng sự truyền hình

- Quá trình hình thành và phát triển của phóng sự truyền hình.

Thuật ngữ truyền hình Television có nguồn gốc từ hai từ ghép của tiếng La Tinh và Hi Lạp: “tele” nghĩa là xa và “vedre” nghĩa là xem, “televedre” nghĩa là xem ở xa.

Sự xuất hiện của truyền hình gắn liền với hàng loạt phát minh khoa học vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Theo tác giả Nhật An trong tác tác phẩm “Đường vào nghề phát thanh truyền hình” thì năm 1927 là năm đánh dấu mốc quan trọng của lịch sử ngành truyền hình thế giới. Lần đầu tiên một chương trình truyền hình giữa New York và Washington (Mỹ) được dàn dựng đồng thời phát sóng với quy mô lớn. Năm 1935 nước Pháp lắp đặt giàn ăng-ten trên đỉnh tháp Effel, chính thức phát sóng truyền hình. Năm 1936 một công ty truyền thông ở Anh xây dựng đài truyền hình trên cung điện Alisanta với thời lượng phát sóng 2 giờ mỗi ngày. Cũng trong năm 1936 nước Đức tổ chức truyền hình trực tiếp thế vận hội Olympic khai mạc tại Berlin. Việc phát sóng truyền hình qua hệ thống điện bắt đầu được áp dụng vào năm 1936 tại Mỹ và Anh, năm 1938 tại Liên Xô, Pháp, Đức, Italia. Năm 1954 có truyền hình màu. Vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX tín hiệu truyền hình được chuyển tải qua vệ tinh nhân tạo đến với nhiều quốc gia, tiếp đó là sự ra đời của truyền hình cáp và ngày nay có thêm truyền hình kỹ thuật số, truyền hình qua Internet...Có thể nói cùng với thời gian, truyền hình đã tạo được những bước tiến khổng lồ về kỹ thuật, công nghệ đồng thời tham gia mạnh mẽ vào các hoạt động của đời sống, trở thành kênh truyền thông đại chúng đầy ưu thế. Theo đánh giá của độc giả tuần báo Times (Anh): vô tuyến

truyền hình là một trong 10 phát minh quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỷ XX .

Như vậy phải đến đầu thế kỷ XX truyền hình mới chính thức ra đời với tư cách là phương tiện truyền thông đại chúng và đương nhiên kéo theo sự ra đời của các thể loại báo chí truyền hình, trong đó có phóng sự truyền hình. Tuy nhiên theo cách lập luận của các tác giả Cudơnhétxốp, Xvích, Iurốpxki ( trong tác phẩm Báo chí truyền hình) thì điện ảnh là tiền thân trực tiếp của truyền hình và trong thời kỳ đầu quan niệm cũng như cách làm một số tác phẩm điện ảnh đã khá giống với thể loại phóng sự xuất hiện phổ biến trên truyền hình về sau. Có thể thấy rò mối liên hệ này qua các thước phim thời sự như Tàu vào ga Lixiôta của anh em nhà Luymier ( Pháp), Tinh thần Saint Louis của anh em nhà William Fox ( Mỹ), Ca sỹ nhạc Jazz của anh em nhà Warner (Mỹ)... Sở dĩ có thể gọi những tác phẩm điện ảnh này gần với phóng sự truyền hình bởi phương châm phản ánh cuộc sống như nó vốn có.

Theo giới nghiên cứu thì phóng sự truyền hình đúng nghĩa đầu tiên là phóng sự do Hãng Phát thanh và Truyền hình Anh quốc BBC thực hiện vào năm 1937 khi nhà vua George VI đăng quang. Các tác giả Cudơnhetxốp, Xvích, Iurôpxki trong tác phẩm Báo chí truyền hình cho rằng hình thức thứ nhất hay hình thức ban đầu của phóng sự truyền hình là phóng sự không bình luận (còn gọi là phóng sự truyền hình sự kiện). Hình thức này dựa trên cơ sở truyền hình trực tiếp sự kiện. Đó là những sự kiện chính trị xã hội hoặc sự kiện văn hoá quan trọng nhất mà khán giả quan tâm đến việc đang diễn ra. Thời kỳ đầu các sự kiện được truyền trực tiếp thường là những cuộc họp có ý nghĩa nền tảng mà các cơ quan lập pháp tối cao của đất nước tổ chức, các cuộc họp báo từ các nhà hoạt động nhà nước… Phóng sự do hãng BBC thực hiện về lễ đăng quang của vua George VI chính là phóng sự truyền trực tiếp, không bình luận. Khác với phóng sự không bình luận, trong loại hình

phóng sự có bình luận xuất hiện sau đó, bên cạnh người quay phim, đạo diễn, các chuyên gia âm thanh thì phóng viên làm phóng sự trở thành nhân vật hành động. Phóng viên là “hướng dẫn viên” của khán giả truyền hình, là người dùng lời nói sinh động, thái độ biểu cảm, giúp khán giả hiểu thực chất sự việc diễn biến trên màn ảnh. Phóng sự không bình luận và phóng sự có bình luận đều dựa trên cơ sở truyền trực tiếp sự kiện. Những phóng sự ghi lại sự kiện chỉ xuất hiện khi ra đời băng từ và kỹ thuật ghi băng. Bên cạnh phóng sự truyền trực tiếp, phóng sự ghi lại sự kiện tạo ra những thay đổi không chỉ về cách làm mà cả về cách quan niệm thể loại.

Ở Việt Nam phải đến tháng 9/1970 mới bắt đầu có truyền hình. Tuy nhiên thể loại phóng sự truyền hình đã hình thành manh nha trước đó với sự xuất hiện các thước phim thời sự tài liệu của điện ảnh cách mạng. Một số bộ phim như Trận đánh ô Cầu Dền năm 1946, Hồ Chủ Tịch từ Pháp trở về… đã mang những đặc trưng của phóng sự truyền hình. Ngày 7/9/1970 đài Truyền hình Việt Nam chính thức thành lập. Trong bối cảnh đất nước chia cắt, toàn Đảng toàn dân đang dồn sức chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng ở miền Nam, phóng viên truyền hình đã có mặt kịp thời trên các điểm nóng phản ánh tinh thần chiến đấu anh dũng, động viên phong trào thi đua sản xuất, giết giặc lập công, đấu tranh bẻ gãy các luận điệu xuyên tạc thù địch. Trong thời kỳ này các phóng sự như “Hà Nội 5 ngày đọ sức” (1973), “ Tiếng trống trường” (1973), “Việt Nam và chiếc xe đạp” (1975)… đã tạo được dấu ấn sâu đậm trong lòng người xem, để lại những bài học sâu sắc về kỹ năng làm nghề cũng như lòng nhiệt tình nghề nghiệp. Đồng hành với sự lớn mạnh của truyền hình Việt Nam trong gần 40 năm qua, nhiều chương trình truyền hình phong phú hấp dẫn đã ra đời, kéo theo là sự xuất hiện của nhiều thể loại. Trong xu thế phát triển chung, thể

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí