Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Huy Động Nguồn Lực Tài Chính Từ Kinh Tế Tư Nhân.


tham gia đóng góp nguồn lực tài chính, nhân lực vào các mục tiêu này. Bảng

2.3 cho thấy nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng ở các nước Nam Á chiếm khoảng 8% GDP. Hình 2.2. báo cáo tổng nguồn vốn đầu tư vào hạ tầng có sự tham gia của tư nhân tại các khu vực trên toàn cầu. Khu vực Đông Á – Thái Bình Dương và khu vực Mỹ La tinh và Carribean có sự đầu tư lớn nhất. Tổng đầu tư của các dự án này lên tới 754 tỷ đô la (theo thời giá năm 2001)4. Ngân sách nhà nước vốn có hạn, trong khi nhu cầu nguồn lực tài chính cho đầu tư rất lớn. Vì vậy, việc xã hội hóa các dự án đầu tư mang tính xã hội, cơ sở hạ tầng sẽ giúp huy động được nguồn lực, giảm sức ép lên ngân sách.

Cuối cùng, huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân nhằm phát triển kinh tế - xã hội còn có ý nghĩa khẳng định chủ trương nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta đối với chiến lược phát triển kinh tế nhiều thành phần. Những công trình hạ tầng, các dự án xã hội có khả năng thu lợi nhuận, nếu như trước kia là độc quyền của nhà nước thì nay tư nhân có thể tham gia đầu tư, khai thác. Nhà nước có cơ chế đảm bảo cho khu vực tư nhân có thể hoàn vốn và có lợi nhuận nhất định. Điều này cũng góp phần hỗ trợ sự phát triển của kinh tế tư nhân.

Như vậy, có thể thấy việc thu hút nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân có vai trò và ý nghĩa quan trọng, nhiều mặt, vừa góp phần vào tăng truởng và phát triển kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, vừa tạo ra cơ hội thu nhập cho các đơn vị kinh tế tư nhân.

2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân.

Có nhiều yếu tố khác nhau tác động đến qui mô và khả năng huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân, trong đó bao gồm các yếu tố



4 Clive Harris, Private Participation in Infrastructure in Developing Countries: Trends, Impacts and Policy Lessons” Worldbank Working paper No 5, 2003.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 239 trang tài liệu này.


về hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh, cơ chế chính sách, hệ thống tài chính, …

Huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam - 10

2.2.3.1 Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế tạo ra nhu cầu về vốn đầu tư cho tăng trưởng phát triển và đồng thời cũng tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và khu vực tư nhân nói riêng tích lũy nguồn lực tài chính. Nếu tăng trưởng trì trệ, thu nhập tăng chậm hoặc giảm sút thì khả năng tích lũy của khu vực tư nhân suy giảm, nguồn lực tài chính của họ bị hạn chế và do đó ảnh hưởng đến khả năng huy động.

2.2.3.2 Hệ thống pháp luật

Hệ thống luật pháp có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển và khả năng huy động nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, ở nước ta khu vực tư nhân gần như không tồn tại do qui định pháp luật và cơ chế kinh tế, thì nay, với sự phát triển nền kinh tế thị trường đa thành phần, khu vực tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ. Nhờ đó, nguồn lực tài chính tích lũy từ khu vực tư nhân tăng lên.

Các cơ chế chính sách như các luật về doanh nghiệp, đầu tư tư nhân, các qui định về huy động nguồn lực tài chính, về hệ thống tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, đầu tư cơ sở hạ tầng, chính sách thuế, đất đai, chuyển giao công nghệ, hợp tác kinh doanh,… đều ảnh hưởng quan trọng đến khu vực kinh tế tư nhân và các hình thức huy động nguồn lực tài chính từ khu vực này.

Chính vì thế, để huy động có hiệu quả nguồn lực tài chính tư nhân, cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, thể chế và cơ chế chính sách.

2.2.3.3 Môi trường kinh doanh

Môi trường kinh doanh là môi trường trong đó các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp tư nhân hoạt động. Nó bao gồm các chính sách, qui định, tập quán,… hay nói cách khác là luật chơi trong nền kinh tế. Môi trường


kinh doanh thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, từ đó thu hút được các nguồn lực trong xã hội vào sản xuất kinh doanh , trong đó có nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân.

Môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động huy động nguồn lực tài chính trên các phương diện:

Thứ nhất, môi trường kinh doanh tác động đến cầu về nguồn lực tài chính, hay nói cách khác tới hoạt động đầu tư. Nếu môi trường thuận lợi, đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội gia tăng làm tăng nhu cầu về vốn, và từ đó kích thích hoạt động huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân.

Thứ hai, môi trường kinh doanh tác động đến cung hay qui mô nguồn lực tài chính. Nếu môi trường kinh doanh thuận lợi, thu nhập và lợi nhuận của khu vực tư nhân tăng lên làm gia tăng tích lũy nguồn lực tài chính. Đó là điều kiện để có thể tăng cường huy động nguồn lực tài chính vào đầu tư phát triển.

Thứ ba, môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động huy động nguồn lực tài chính, nghĩa là hoạt động đưa nguồn lực tài chính tới gặp cầu. Khi môi trường kinh doanh thuận lợi, thì các hình thức huy động

Môi trường kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất chính là các yếu tố luật pháp, thể chế, cơ chế chính sách, xác lập luật chơi cho nền kinh tế.

2.2.3.4 Môi trường kinh tế vĩ mô

Môi trường kinh tế vĩ mô có tác động đến mọi mặt của nền kinh tế quốc dân. Nếu môi trường vĩ mô không ổn định, doanh nghiệp sẽ không có điều kiện thuận lợi để phát triển, thậm chí, doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng phá sản. Các yếu tố có thể gây mất ổn định vĩ mô gồm lạm phát/ thiểu phát, thâm hụt cán cân thanh toán, lãi suất, tỷ giá, hệ thống tài chính… Chẳng hạn, khủng hoảng tài chính có thể nổ ra và đe dọa toàn bộ nền kinh tế. Khi đó,


ngay cả những doanh nghiệp làm ăn tốt nhất cũng sẽ gặp khó khăn, phải thu hẹp, thậm chí đóng cửa sản xuất. Trong điều kiện đó, thật khó để thu hút nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân. Kinh tế vĩ mô không ổn định tạo ra rủi ro cao cho đầu tư, khiến cho việc huy động nguồn lực tài chính trở nên khó khăn, do rất khó dự báo kết quả đầu tư. Chính vì thế, môi trường vĩ mô ổn định là điều kiện để thu hút đầu tư tư nhân, dù là đầu tư trực tiếp hay đầu tư qua hệ thống tài chính.

2.2.3.5 Xu hướng, tập quán tiêu dùng - tiết kiệm - đầu tư

Nguồn lực tài chính và khả năng huy động nguồn lực tài chính từ khu vực kinh tế tư nhân chịu ảnh hưởng bởi xu hướng và tập quán tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. Nguồn thu nhập của các hộ gia đình được sử dụng một phần để chi tiêu tiêu dùng và một phần sẽ để tiết kiệm. Nếu xu hướng tiêu dùng cận biên MPC cao, nghĩa là với mỗi thu nhập tăng thêm, hộ sử dụng nhiều cho chi tiêu, thì nguồn lực tài chính tiết kiệm được sẽ thấp. Ngược lại, nếu xu hướng tiêu dùng cận biên thấp, tiết kiệm sẽ được nhiều hơn và từ đó nguồn lực tài chính tư nhân sẽ cao hơn. Khả năng huy động nguồn lực, bên cạnh phụ thuộc vào qui mô tích lũy nguồn lực tài chính, còn phụ thuộc vào xu hướng đầu tư. Nếu hộ gia đình ít có tập quán và xu hướng đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc đầu tư tài chính, tỷ lệ huy động nguồn lực sẽ thấp, hộ sẽ giữ nguồn lực tại nhà dưới dạng vàng, ngoại tệ và tiền mặt nhiều hơn, thay vì đầu tư. Trong những năm qua, cùng với tăng trưởng kinh tế, xu hướng đầu tư sinh lợi tăng lên, tỷ lệ tích trữ giảm đi, nhưng xu hướng tiêu dùng xa xỉ cũng tăng nhanh, có xu hướng làm giảm tỷ lệ tiết kiệm. Những điều này sẽ có tác động trực tiếp đến tích lũy nguồn lực tài chính tư nhân và huy động nguồn lực tài chính tư nhân ở nước ta.

2.2.3.6 Hệ thống tài chính


Để thu hút nguồn lực tài chính tư nhân, một kênh quan trọng là thu hút gián tiếp qua hệ thống tài chính. Đây là kênh thu hút nguồn lực tài


chính quan trọng, đặc biệt là thu hút nguồn lực tài chính qui mô nhỏ và vừa từ các hộ gia đình không có khả năng đầu tư sinh lợi. Để giải bài toán thu hút nguồn lực tài chính phân tán, đa dạng, khó đo lường, hệ thống tài chính cần phải phát triển mạng lưới rộng khắp, với nhiều loại hình, nhiều công cụ tài chính khác nhau, phù hợp với nhu cầu và qui mô nguồn tài chính khác nhau của khu vực tư nhân.

2.2.3.7 Nhận thức của hệ thống chính trị, của doanh nghiệp và người dân


Bên cạnh các yếu tố khách quan, còn có các yếu tố chủ quan đến từ tập quán, quan điểm, nhận thức.. về hoạt đông đầu tư và sử dụng nguồn lực tài chính tư nhân. Chẳng hạn, ở một số nơi, người dân không có thói quen đầu tư nguồn lực tài chínhvào sản xuất hay hệ thống tài chính mà mua vàng và ngoại tệ cất trữ. Hay một số doanh nghiệp tư nhân không năng động tìm kiếm cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh mà đem tiền vào bất động sản. Thêm nữa, bên cạnh yếu tố chủ quan của khu vực tư nhân, còn có yếu tố chủ quan từ phía cơ quan quản lý, có nhận thức được vai trò và cam kết mạnh mẽ trong việc phát triển kinh tế tư nhân và thu hút nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân hay không. Nếu thiếu đi cam kết từ chính phủ với nhận thức đúng đắn, thì sẽ rất khó để thu hút hiệu quả nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân.

2.2.4 Vai trò của nhà nước trong huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân

Nguồn lực tài chính tư nhân có thể huy động theo nhiều kênh, bởi nhiều chủ thể khác nhau. Bản thân cơ chế thị trường trên thị trường vốn sẽ tạo ra các động lực thúc đẩy hoặc hạn chế huy động nguồn lực tài chính. Chẳng hạn, khi nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội gia tăng, hoạt động huy động nguồn lực tài chính sẽ được đẩy mạnh. Tuy nhiên, như chúng ta đều biết, cơ chế thị trường với bàn tay vô hình cũng có khiếm khuyết và cần phải


có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước, với tư cách là người quản lý và cũng là một chủ thể huy động nguồn lực tài chính có vai trò rất lớn trong huy động nguồn lực tài chính nói chung và huy động nguồn lực tài chính từ khu vực kinh tế tư nhân nói riêng.

Nhà nước là chủ thể huy động nguồn lực tài chính tư nhân


Nhà nước chính là chủ thể huy động nguồn lực tài chính tư nhân thông qua ngân sách nhà nước và thông qua kênh hợp tác công tư, xã hội hóa. Nguồn huy động chủ yếu của nhà nước là thông qua công cụ thuế. Thông qua thuế, nhà nước huy động một phần đóng góp tài chính của khu vực kinh tế tư nhân vào đầu tư phát triển, chủ yếu là cung cấp các dịch vụ công và hàng hóa công cộng.

Nhà nước xây dựng hành lang xây dựng hành lang pháp lý và hệ thống chính sách cho sự phát triển kinh tế tư nhân

Không chỉ là một chủ thể huy động nguồn lực tài chính lớn, nhà nước còn xây dựng hành lang pháp lý, và các chính sách cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của khu vực này và do đó, tới nguồn lực tài chính của kinh tế tư nhân. Nếu các chính sách của nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tư nhân phát triển, nguồn lực tài chính tích lũy sẽ ngày càng tăng nhanh. Đầu tư của khu vực tư nhân cũng phát triển mạnh. Ngược lại, nếu chính sách không hỗ trợ cho khu vực tư nhân, khu vực này sẽ phát triển èo uột, nguồn lực tài chính tích lũy bị hạn chế và không có nhiều để huy động.

Nhà nước tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh


Không chỉ hành lang pháp lý, nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh trong nước. Khi kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng, các


thành phần kinh tế đều có cơ hội phát triển, trong đó có khu vực tư nhân. Môi trường vĩ mô và môi trường kinh doanh thuận lợi giúp khu vực tư nhân tích lũy nguồn lực tài chính, mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh, vừa tạo ra nguồn lực tài chính dồi dào, vừa dễ dàng huy động nguồn lực đó cho đầu tư phát triển.

2.2.5 Đánh giá hiệu quả huy động nguồn lực tài chính từ khu vực tư

nhân


Đánh giá hiệu quả huy động nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân là

việc rất khó, do nguồn lực tài chính tư nhân rất đa dạng, với nhiều triệu hộ gia đình, hàng trăm ngàn doanh nghiệp tư nhân, hàng nghìn doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa,…Nguồn lực tài chính tư nhân không minh bạch, khó đo lường. Để đánh giá hiệu quả huy động nguồn lực tài chính tư nhân, người ta thường so sánh qui mô huy động so với qui mô nguồn lực tài chính. Qui mô huy động càng lớn tương đối so với qui mô nguồn lực có nghĩa là huy động càng hiệu quả. Ngoài ra, người ta còn có thể tính đến cơ cấu huy động nguồn lực theo các kênh hoặc chủ thể huy động. Chẳng hạn, có nghiên cứu cho rằng kênh huy động trực tiếp từ doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả hơn kênh huy động vào ngân sách nhà nước. Trong luận án, tác giả lựa chọn cách tiếp cận so sánh giữa qui mô huy động và tiềm năng nguồn lực tài chính tư nhân. Sở dĩ luận án sử dụng tiềm năng huy động nguồn lực tài chính tư nhân là bởi vì ở nước ta chưa có một thống kê chính xác nào về qui mô nguồn lực tài chính tư nhân. Do đó, luận án so sánh giữa phần nguồn lực tài chính tư nhân đã huy động, với phần nguồn lực tài chính còn chưa huy động được, thể hiện dưới dạng tiền, vàng, ngoại tệ còn dự trữ trong khu vực tư nhân. Nếu phần chưa huy động được còn lớn, chứng tỏ huy động nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân vào đầu tư phát triển còn chưa hiệu quả.


2.3 KINH NGHIỆM HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Để có thể thu hút tốt nguồn lực tài chính tư nhân vào đầu tư phát triển, việc tham khảo kinh nghiệm và các bài học từ các nước là rất cần thiết. Trong phần này, luận án sẽ phân tích kinh nghiệm của một số nước về huy động tiết kiệm, phát triển hệ thống tài chính và thúc đẩy hợp tác công tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng của các nước Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc,….

2.3.1. Kinh nghiệm của Malaysia: huy động nguồn lực tài chính tư nhân qua kênh tiết kiệm ngân hàng

Malaysia là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với tốc độ bình quân cho giai đoạn 1961-1980 ở mức 7,2%, giai đoạn 1981 – 1996 ở mức 7,4%. Có được điều này là nhờ tỷ lệ đầu tư trên GDP của nước này đã tăng từ 20% lên tới 34% trong hai thập kỷ này. Tỷ lệ đầu tư tăng cao nhưng lại không tạo ra mất cân bằng cán cân thanh toán do một phần đáng kể sự gia tăng ấn tượng này đến từ nguồn tiết kiệm trong nước. Chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước ở Malaysia chưa bao giờ vượt quá 1% kể từ năm 1980.

Tiết kiệm của khu vực tư nhân ở Malaysia đã tăng liên tục qua các năm nhờ vào sự tăng trưởng thu nhập, sự tăng lên của tỷ lệ phụ thuộc theo lứa tuổi, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần và những nỗ lực phát triển hệ thống tài chính. Tỷ lệ tiết kiệm tăng từ chỉ 24% trong năm 1960 lên tới 43% trong năm 1996. Tiết kiệm từ khu vực tư nhân chiếm tới từ 50% đến ¾ tổng tiết kiệm nội địa của Malaysia.

Sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế trong bốn thập kỷ qua đã biến đổi hệ thống tài chính của Malaysia từ chỗ chỉ chủ yếu tài trợ thương mại trở thành hệ thống huy động và phân phối nguồn lực tài chính tới các khu vực khác nhau của nền kinh tế.

Xem tất cả 239 trang.

Ngày đăng: 01/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí