Bài Học Rút Ra Từ Thực Tế Thu Hút Và Sử Dụng Fdi Vào Ngành Điện Thông Qua 5855

đoạn cuối của nhà máy Al Ezzel, như đã nói ở trên, được hoàn thành và đi vào vận hành thương mại vào tháng 5/2007. Cho đến nay, nhà máy vẫn đang hoạt động tốt, cung cấp điện năng tin cậy cho lưới điện Bahrain. Độ khả dụng của tuabin khí là trên 99%, độ khả dụng của hai tuabin hơi tương ứng là 88% và 94%. AEPC vận hành nhà máy Al Ezzel ở chế độ điều tần. Vào mùa hè, là thời điểm nóng nhất trong năm, nhà máy vận hành với công suất chỉ khoảng 750 – 800 MW. Có nghĩa là nhà máy dành một phần dự phòng để có thể tăng công suất trong trường hợp một nhà máy điện khác ngừng hoạt động. Chiến lược này đã hai lần cứu lưới điện sau khi hai nhà máy điện khác bị mất điện đột ngột.

Cơ chế điều chỉnh giá bán điện khi nhà máy điện Al Ezzel cung cấp điện cho lưới điện quốc gia rất thông thoáng và linh hoạt. Những thỏa thuận về giá cho phép những khoản tăng về chi phí được chấp nhận thông qua điều chỉnh giá định kỳ dựa vào sự biến động của giá cả nguyên liệu đầu vào trên thị trường nhằm đảm bảo lợi ích hợp lý của cả hai bên bán và mua. Nhờ đó mà quá trình đàm phán giá điện được diễn ra một cách nhanh chóng, không làm chậm tiến độ thực hiện dự án.

2.4. Bài học rút ra từ thực tế thu hút và sử dụng FDI vào ngành điện thông qua

dự án BOT ở Vương quốc Bahrain

Như vậy, trong hơn một thập kỷ mở rộng chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài, nền kinh tế Bahrain đã có những bước tiến đáng kể, đặc biệt là sự mở cửa ngành công nghiệp điện cho khu vực tư nhân tham gia chủ yếu dưới hình thức BOT. Mặc dù sự phát triển hạ tầng cơ sở ngành điện ở quốc gia này còn non trẻ, song đã gặt hái được những thành công đáng để thông qua những dự án BOT điển hình, có thể làm mẫu cho các dự án khác trong tương lai. Điều này đáng để Việt Nam học hỏi:

- Ưu tiên phát triển đầu tư của khu vực tư nhân cho dịch vụ công: Quan điểm của giới lãnh đạo Bahrain đối với sự phát triển kinh tế nói chung và cơ sở hạ tầng ngành điện nói riêng rất mới và tiến bộ. Bahrain đã định hướng tư nhân hóa toàn bộ ngành điện thông qua việc thu hút các dự án BOT, để các nhà đầu tư chủ động quản lý và điều hành. Đây là suy nghĩ táo bạo mà không phải một quốc gia đang phát

triển nào cũng có được. Hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ tạo dựng hành lang pháp lý cho nhà đầu tư đối với các dự án đầu tư.

- Đấu thầu quốc tế công khai, minh bạch: Quá trình lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án BOT ở Bahrain thông qua quá trình đấu thầu quốc tế rất minh bạch, rõ ràng và công khai, làm giảm bớt đi rất nhiều những công đoạn “mờ”, phi lý bắt nguồn trong quá trình thực hiện dự án. Điều này không những giúp lựa chọn được nhà đầu tư lớn, có uy tín và năng lực tài chính nhằm đảm bảo sự thành công trong việc thu hút vốn vào công trình mà còn cho các nhà đầu tư quốc tế khác thấy được sự công bằng trong việc lựa chọn nhà thầu và tin tưởng hơn trong những lần đấu thầu sau.

- Đề ra tiêu chí kỹ thuật cao, nghiêm ngặt để đảm bảo chất lượng và tránh ô nhiễm môi trường: Đối với các dự án nhà máy điện lớn và trọng điểm, đòi hỏi những yêu cầu nghiệm ngặt về vốn, kinh nghiệm, công nghệ, kỹ thuật và trình độ thì nhà thầu xây dựng được lựa chọn kỹ lưỡng, có năng lực kỹ thuật và quản lý, có sức mạnh về nguồn lực và tài chính, đủ kinh nghiệm để hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng. Quá trình lắp đặt xây dựng nhà máy được thực hiện tuân theo tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe với các máy móc hiện đại đảm bảo cho sự vận hành thương mại thành công sau này, giảm bớt nguy cơ gặp phải những trục trặc trong quá trình hoạt động. Nhờ vậy mà các dự án đều được đưa vào vận hành theo đúng tiến độ, cung cấp điện theo đúng kế hoạch đề ra, đảm bảo không gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường.

- Cơ chế điều chỉnh giá bán điện thông thoáng và linh hoạt: Trong hợp đồng mua bán điện giữa Bahrain và nhà đầu tư luôn dựa trên nguyên tắc đảm bảo mức lợi nhuận hợp lý cho nhà đầu tư, cho phép những khoản tăng về chi phí được chấp nhận thông qua điều chỉnh giá định kỳ dựa vào sự biến động của giá cả nguyên liệu đầu vào trên thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

. - Tạo ra một dự án mẫu với những tiêu chuẩn nhất định: Việc xây dựng thành công ngay từ dự án điện BOT đầu tiên – dự án điện Al Ezzel theo kế hoạch tư nhân hóa của Chính phủ Bahrain giúp tạo ra một dự án mẫu, đảm bảo sự thành công và tiết kiệm thời gian cho việc thực hiện các dự án điện sau này.

Mặc dù vậy, quá trình triển khai các dự án BOT vào ngành điện ở Bahrain cũng còn tồn tại những nhược điểm lớn: sau khi hợp đồng dự án Al Ezzel được trao thì việc tư nhân hóa ngành điện đã chững lại một thời gian. Điều này đã gây nên những nghi ngờ lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài về sự nhất quán trong hệ thống chính sách thu hút đầu tư FDI của Bahrain.‌

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp điện ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 12

II. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp điện ở Việt Nam từ nay đến năm 2020

1. Một số định hướng của Chính phủ Việt Nam trong việc phát triển ngành công nghiệp điện đến năm 2020

Ngay từ sau năm 1986, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã đề cao vai trò to lớn của việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng nói chung và ngành điện nói riêng như là một cơ sở thiết yếu thúc đẩy phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Để thực hiện thành công mục tiêu đề ra trong thời gian tới, Chính phủ đã đưa ra những định hướng phát triển ngành công nghiệp điện định hướng đến 2020 với những nội dung cụ thể như sau:

- Phát triển ngành điện phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân với phấn đấu đến năm 2020 đạt sản lượng từ 201 đến 250 tỷ Kwh, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Đẩy mạnh điện khí hóa nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo với mục tiêu đẩy nhanh chương trình đưa điện về nông thôn, miền núi, phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% số hộ dân nông thôn có điện.

- Bảo đảm chất lượng điện năng để cung cấp dịch vụ điện với chất lượng ngày càng cao. Hiện tại, ngành điện đang hướng tới một thị trường điện cạnh tranh, trong đó EVN đóng vai trò trung gian truyền tải điện và các nhà sản xuất điện cạnh tranh về giá để cung cấp điện cho thị trường. Chính phủ coi trọng tiết kiệm điện năng từ khâu phát, truyền tải đến khâu sử dụng. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đề cao việc đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành điện.

- Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp của đất nước như nguồn thủy năng (kết hợp với thủy lợi), khí, dầu, than cho sản xuất điện để phát triển cân đối nguồn điện, áp dụng thiết bị sử dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và kiểm soát, giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động điện lực.

- Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện để xây dựng nhà máy điện nguyên tử (sau năm 2015) đảm bảo an toàn tuyệt đối trong sử dụng, nhằm đa dạng hóa các nguồn năng lượng. Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa.

- Thực hiện cơ chế hoạt động đa dạng hóa sản phẩm, bao gồm nhiều công ty có tư cách pháp nhân theo mô hình „Liên kết tài chính – Công nghiệp – Thương mại

– Dịch vụ – Tư vấn‟.

- Từng bước hình thành thị trường điện lực cạnh tranh trong nước, đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia, không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ độc quyền khâu truyền tải, xây dựng và vận hành các nhà máy thủy điện lớn, các nhà máy điện nguyên tử. Chính phủ đã thông qua Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành danh mục các dự án quốc gia gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hình thức khuyến khích đầu tư liên quan đến dự án ngành điện (Phụ lục). Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến danh mục này như tính cấp thiết và đối tượng kêu gọi vốn đầu tư (chẳng hạn chỉ giới hạn cho đầu tư nước ngoài) nhưng danh mục này đã cho thấy quan điểm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.

2. Chiến lược phát triển của ngành công nghiệp điện

Ngành điện Việt Nam hướng đến mục tiêu phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện theo hướng hiện đại: phát triển thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, điện nguyên tử,… kết hợp trao đổi, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực. Tập đoàn Điện lực Việt Nam chỉ đầu tư những công trình phát điện có công suất từ 100 MW trở lên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác đầu tư các công trình có công suất nhỏ hơn. Phát triển nhanh, đồng bộ, hiện đại hệ thống truyền tải, phân phối nhằm nâng cao độ tin cậy, an toàn cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng.

Về chiến lược tài chính và huy động vốn: cần có các cơ chế tài chính thích hợp để Tập đoàn Điện lực Việt Nam đảm bảo được vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển của ngành điện. Tiếp tục triển khai một số công trình đầu tư theo hình thức BOT, liên doanh để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, đồng thời tăng khả năng trả nợ cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Đồng thời, xây dựng các biện pháp huy động vốn trong xã hội dân để đầu tư phát triển điện. Ngành điện cần tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách giá điện đã được duyệt theo hướng vừa tiến dần đến chi phí biên dài hạn vừa cải cách biểu giá điện, giảm bù chéo quá lớn giữa các nhóm khách hàng.

Về chiến lược phát triển thị trường điện: ngành điện sẽ từng bước hình thành thị trường điện trong nước, trong đó Nhà nước giữ độc quyền ở khâu truyền tải và chi phối trong khâu sản xuất và phân phối điện. Trước mắt, hình thành thị trường mua bán điện trong nội bộ Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Nghiên cứu xây dựng đầy đủ các khuôn khổ pháp lý, các điều kiện để sớm hình thành thị trường điện độc lập.

Về chiến lược phát triển điện nông thôn và miền núi: ngành điện sẽ nỗ lực đẩy mạnh điện khí hoá nông thôn nhằm góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; Sử dụng các nguồn năng lượng mới và tái tạo để cấp điện cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; Xây dựng cơ chế quản lý để duy trì và phát triển các nguồn điện ở những khu vực này; Khuyến khích đa dạng hoá trong đầu tư và quản lý lưới điện nông thôn; Tăng cường kiểm soát giá điện nông thôn để đảm bảo thực hiện theo đúng giá trần do Chính phủ quy định.

III. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng FDI vào ngành điện

Ngành điện của Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn trong tương lai bởi nó không những đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư mà còn giúp hoàn thiện hệ thống hạ tầng cơ sở, phục vụ cho phát triển kinh tế của đất nước. Bởi vậy, việc đưa ra những giải pháp hữu ích nhằm thu hút các dự án điện độc lập vào ngành này một cách hiệu quả là điều mà cả Chính phủ và các nhà đầu tư rất quan tâm. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của Ấn Độ về quá trình triển khai dự án điện IPP nói chung, kinh nghiệm của Vương quốc Bahrain về việc thực hiện dự án BOT nói riêng, cùng với thực tiễn thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam, tác giả đưa ra

những giải pháp nhằm thu hút các dự án IPP vào ngành công nghiệp điện ở Việt Nam như sau:

1. Giải pháp đối với Nhà nước

1.1. Xây dựng mô hình thị trường điện lực Việt Nam

Trên thế giới, khái niệm “độc quyền” không còn xa lạ. Về bản chất, độc quyền là một tình huống trong đó một công ty hoặc một tập đoàn, một nhóm các công ty chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Khái niệm độc quyền hiểu theo nghĩa hẹp là việc chiếm lĩnh thị trường của một công ty. Thị trường độc quyền là thị trường không có sự cạnh tranh, do đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là mức giá cao hơn và sản phẩm chất lượng thấp hơn. Độc quyền là một ví dụ điển hình khi nhắc tới chủ nghĩa tư bản. Thị trường sẽ không hoạt động nếu chỉ có một người duy nhất cung cấp hàng hóa và dịch vụ vì họ sẽ không có động lực để tự hoàn thiện và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Vì độc quyền có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế và gây hại cho xã hội nên Chính phủ luôn nỗ lực để ngăn ngừa độc quyền bằng các đạo luật chống độc quyền. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, việc Công ty Xăng dầu Hàng không (Vinapco)

– một công ty thuộc Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines), bị tuyên phạt hơn 3 tỷ đồng vì đã đơn phương ngừng cấp nhiên liệu cho các chuyến bay của Jetstar Airlines vào ngày 1/4/200855 cho thấy Việt Nam đã có một bước tiến quan trọng trong việc chống độc quyền, thực thi luật cạnh tranh56. Môi trường kinh doanh ở Việt Nam sẽ trở nên cạnh tranh, bình đẳng và minh bạch hơn nếu như việc xóa bỏ tính độc quyền này được nhân rộng ra những ngành kinh tế khác (trong đó có ngành công nghiệp điện với sự độc quyền của Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN), và điều này sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ.

Ngành điện Việt Nam hiện đang nằm trong xu thế đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động điện lực cùng với nhu cầu về liên kết và hội nhập khu vực. Phương thức quản lý độc quyền Nhà nước của hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay còn nhiều bất cập. Việc nghiên cứu đưa ra mô hình quản lý thị

55 Tổng hợp thông tin báo chí về ngành giao thông vận tải, Bộ Giao thông Vận tải, http://www.mt.gov.vn/Default.aspx?tabid=2&catid=137&articleid=4188

56 Luật cạnh tranh ở Việt Nam được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ tháng 1/2005.

trường điện lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong đầu tư, phát triển, quản lý và vận hành hệ thống điện, đồng thời xem xét vấn đề giá điện và chất lượng dịch vụ điện cũng như huy động các nguồn tài chính mới cho nhu cầu phát triển điện lực là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường. Từ đó giúp hoàn thành những định hướng phát triển của ngành điện trong thời gian tới cũng như thúc đẩy thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào ngành này.

Có thể xem xét biến động của từng đối tượng tham gia vào thị trường điện trong giai đoạn tới, cụ thể như sau:

- Đối với Tập đoàn EVN: do đặc thù của ngành điện Việt Nam trong điều kiện hiện nay là mức cung khó có thể đáp ứng được cầu điện năng trong giai đoạn này. EVN cần chủ động điều tiết các nguồn phát đảm bảo cân bằng hệ thống, do vậy có thể trở thành người mua duy nhất của các nhà máy điện.

- Đối với các nhà máy điện: Từng bước thực hiện cổ phần hóa các nhà máy điện, chuyển các nhà máy điện thuộc EVN thành các nhà máy điện độc lập. Nhờ đó mà các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có thêm nhiều cơ hội tham gia quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh ở các công ty cổ phần này theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ. Các nhà máy điện độc lập này cùng với những nhà máy IPP khác chỉ bán điện trực tiếp cho EVN thông qua chào giá cạnh tranh. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển hơn của hệ thống lưới điện, các khách hàng lớn cũng có thể mua trực tiếp từ các nhà máy điện.

- Đối với các công ty truyền tải: với bản chất là độc quyền tự nhiên, do vậy Nhà nước vẫn nắm giữ thực hiện các hoạt động truyền tải điện từ người mua duy nhất (EVN) đến các công ty điện lực.

- Đối với các công ty phân phối điện năng: thực hiện chuyển đổi trở thành đơn vị độc lập với EVN dưới hình thức Công ty mẹ – Công ty con. Do việc chuyển đổi thị trường điện thực tế không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các công ty phân phối điện do vậy vẫn giữ nguyên chức năng kinh doanh là độc quyền phân phối điện năng cho khách hàng.

- Do cần đảm bảo tính phù hợp của một số hoạt động độc quyền trong mô hình như: EVN độc quyền mua điện từ các nhà máy điện độc lập, độc quyền bán

điện cho các công ty phân phối điện năng, các công ty phân phối độc quyền bán điện cho khách hàng cuối cùng do vậy cần thiết phải có một cơ quan đứng ra kiểm soát hoạt động này với tư cách hoàn toàn độc lập.

- Đối với khách hàng: Tiếp tục chịu mua điện từ một công ty phân phối điện duy nhất trong phạm vi địa lý do bởi các cơ sở hạ tầng của ngành điện trong giai đoạn này có thể chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng mua điện trực tiếp từ nhà sản xuất theo mô hình của thị trường điện cạnh tranh hoàn toàn. Tuy nhiên, đối với các khách hàng có phụ tải lớn có thể mua điện trực tiếp từ các nhà máy điện hoặc thông qua lưới truyền tải của EVN.

Qua tham khảo một số mô hình quản lý kinh doanh điện năng của các nước trên thế giới gắn với việc xem xét thực trạng mô hình quản lý độc quyền Nhà nước cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh ngành điện Việt Nam, ta có thể xây dựng mô hình quản lý thị trường điện lực như sau:

Hình 5: Mô hình quản lý thị trường điện lực


Nguồn: Các mô hình quản lý thị trường điện lực và khả năng áp dụng tại Việt Nam, http://www.hiendaihoa.com/electricity_detail.php?id=4398

1.2. Cải cách thủ tục hành chính

- Chính phủ cần đơn giản hóa, công khai quy trình và các loại thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài. Đảm bảo sự thống nhất các quy trình, thủ tục tại

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2022