thường đã có bộ máy quản lý, có kế hoạch kinh doanh và đã có nghiên cứu thị trường.
Tài trợ giai đoạn đầu (First-stage financing): tài trợ cho công ty thiếu vốn để sản xuất hàng hoá và tung ra thị trường.
Tài trợ giai đoạn mở rộng sản xuất (expansion financing): Quỹ ĐTMH tài trợ cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, mở rộng phạm vi thị trường; hoặc phát triển nâng cấp một sản phẩm và tài trợ cho công ty chuẩn bị niêm yết lần đầu trong vòng 6 tháng đến 1 năm tới. Đồng thời Quỹ cũng giúp doanh nghiệp xây dựng cơ cấu sở hữu hợp lý của doanh nghiệp. Giai đoạn này đã bắt đầu mang lại lợi nhuận tài chính cho các bên, kể cả lợi ích về xây dựng năng lực công nghệ cao, cho nền kinh tế.
Giai đoạn tài trợ tăng tốc (later stage): là giai đoạn đưa doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường bằng các hoạt động kinh doanh tăng tốc, tạo sản phẩm mới. Thị trường chứng khoán thường đóng vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường trong giai đoạn này.
Bảng 4: Rủi ro và lợi nhuận dự kiến trong quy trình vốn mạo hiểm
Cao nhất Thấp nhất Ươm tạo công nghệ Phát triển sản phẩm LBO7 | |
Giai đoạn | |
% ROI8 dự kiến | 50% 40% 30% Cao nhất Thấp nhất |
Khả năng lợi nhuận |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động đầu tư mạo hiểm trên thế giới và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (2008) - 1
- Hoạt động đầu tư mạo hiểm trên thế giới và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (2008) - 2
- So Sánh Quỹ Đầu Tư Mạo Hiểm Và Quỹ Đầu Tư Chứng Khoán
- Quá Trình Ra Đời Và Phát Triển Của Hoạt Động Đtmh Trên Thế Giới
- Hoạt Động Đtmh Tại Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới
- Khái Quát Sự Hình Thành Và Phát Triển Hoạt Động Đtmh Ở Trung Quốc
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp từ nghiên cứu của ThS. Đặng Thị Thu Hoài,viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương, 2003.
2.3.3 Kết thúc đầu tư (hay còn gọi là thoát vốn)
Vốn mạo hiểm hoạt động theo chu kỳ, và mỗi chu kỳ thường kết thúc bằng một đợt thoát vốn, tức là việc các quản lý vốn mạo hiểm tiến hành thanh lý các khoản đầu tư, thu hồi vốn và lãi (nếu có) để phân phối cho các bên tham gia. Thoát vốn là một khâu quan trọng, không chỉ bởi vì nó thoả mãn những lợi ích của các bên tham gia mà còn vì nó sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn đóng góp tài chính và phi tài chính của các nhà quản lý vốn mạo hiểm do việc quay vòng vốn để hỗ trợ
7 LBO: Leverage buy out – Mua lại nhờ vốn vay
8 ROI: Return on investment – Suất sinh lời của vốn đầu tư
cho một thế hệ công ty khởi nghiệp mới. Chính vì vậy đây là một nét đặc thù của kênh dẫn vốn này.
Thoát vốn cũng có tác động tới mối quan hệ giữa một quỹ mạo hiểm và các nhà đầu tư vào quỹ. Thoát vốn đáp ứng ba vấn đề trong mối quan hệ giữa nhà quản lý vốn mạo hiểm – nhà đầu tư. Một là, những người cung cấp vốn cần có một phương thức để đánh giá kỹ năng của nhà quản trị vốn mạo hiểm, để còn quyết định sẽ cung cấp những lượng tiền mới cho những nhà quản trị nào. Hai là, những người cung cấp vốn cần phải đánh giá rủi ro và lợi nhuận trên các khoản đầu tư vốn mạo hiểm trong tương quan với các khoản đầu tư khác, để quyết định có đầu tư hay không và đầu tư bao nhiêu. Ba là, các nhà cung cấp vốn cần có khả năng rút lại vốn từ các nhà quản trị kém thành công. Việc các quỹ mạo hiểm thoát vốn khỏi những danh mục đầu tư cụ thể sẽ tạo ra một tiêu chuẩn so sánh cho phép những nhà cung cấp vốn đánh giá cả kỹ năng của nhà quản trị vốn mạo hiểm khác nhau cũng như khả năng thu lợi nhuận của vốn mạo hiểm so với những khoản đầu tư khác. Đồng thời, việc thanh toán số tiền nhận được sau khi thoát vốn cho các nhà cung cấp vốn sẽ cho phép họ quay vòng quỹ từ những nhà quản trị vốn mạo hiểm ít thành công sang các nhà quản trị thành công hơn.
Các kênh thoát vốn
- Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO): là việc một công ty lần đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán và bán cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng. Theo đó, chứng khoán phát hành phải là các chứng khoán có chất lượng cao, công ty phát hành phải là công ty có triển vọng phát triển trong tương lai, và để được phát hành thì công ty phát hành phải thỏa mãn khá nhiều yêu cầu của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. Nếu một công ty trẻ phát đạt và cần thêm vốn cổ phần để tiến hành phát triển sản xuất và đầu tư thì đây là một việc nên làm.
Kênh thoát vốn này, mặc dù đòi hỏi những khoản chi phí không nhỏ, là kênh được ưa thích vì nói chung, nó đem lại sự định giá cao nhất đối với công ty trong khi vẫn bảo toàn được tính độc lập của ban quản lý. Tiềm năng thoát vốn thông qua hình thức IPO cho phép người khởi nghiệp và quỹ mạo hiểm tham gia vào một hợp
đồng ngầm tự động có hiệu lực đối với vấn đề kiểm soát, trong khi đó quỹ mạo hiểm thoả thuận trả lại quyền kiểm soát cho doanh nghiệp khởi nghiệp thành công, bằng cách thoát vốn thông qua hình thức IPO với giả định là người khởi nghiệp sẽ giữ lại quyền kiểm soát đối với một khối lượng cổ phần đủ lớn.
Thông qua hình thức IPO, phần đóng góp của quỹ mạo hiểm bị giảm đi và doanh nghiệp tiếp nhận vốn sẽ không còn bị phụ thuộc vào sự tài trợ theo giai đoạn của nhà quản lý vốn mạo hiểm nữa. IPO giảm bớt những hạn chế về tính thanh khoản của doanh nghiệp khởi nghiệp và thị trường cổ phiếu giảm bớt nhu cầu về sự giám sát chặt chẽ của nhà quản lý vốn mạo hiểm. Cuối cùng, hợp đồng công khai giữa quỹ mạo hiểm và công ty tiếp nhận vốn đảm bảo rằng những quyền kiểm soát quan trọng mà lúc đầu được trao cho quỹ sẽ mất đi sau khi áp dụng hình thức IPO, bất kể quỹ có bán cổ phần hay không.
- Bán thương mại: là kênh thoát vốn khá phổ biến, nhất là ở châu Âu nơi mà đa số các quốc gia đều có thị trường tài chính dựa vào ngân hàng là chính. Đó là việc bán (hoặc sáp nhập) một công ty mới cho công ty khác lớn hơn. So với kênh thoát vốn chào bán lần đầu ra công chúng (IPO), bán thương mại được coi là phương thức nhanh và rẻ hơn. Những công ty lớn, đặc biệt là các công ty đã có sản phẩm hoàn chỉnh và các luồng thu nhập ổn định, thường quan tâm nhiều tới việc mua những doanh nghiệp mới khởi sự có khả năng lợi nhuận hơn là xây dựng từ đầu những doanh nghiệp mới. Ngoài ra, việc mua lại doanh nghiệp còn do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Có được con người, kỹ năng hoặc là tài sản sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với lĩnh vực công nghệ cao; (2) Có thể ghép những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp này bổ sung , hỗ trợ cho những hoạt động khác của công ty; (3) Thâu tóm được một đối thủ kinh doanh đang cạnh tranh để tăng thị phần và thu lợi nhuận lớn; (4) Các khách hàng luôn muốn tìm đến đầu nguồn trong dây chuyền cung ứng để đảm bảo được nguồn cung ổn định, và tối thiểu hóa chi phí; (5) Nhà cung cấp muốn tìm đến cuối nguồn để kiểm soát thị phần.
Phương thức này xác nhận khả năng được tái tài trợ bởi một nhà đầu tư mới tại thời điểm kết thúc một quỹ đóng, trong khi cũng đảm bảo được sự định giá độc lập. Ngoài ra, nó cho phép ban quản lý của doanh nghiệp nhận đầu tư vẫn ở lại ngay
cả khi không lựa chọn IPO, và cho phép một doanh nghiệp được tái vay vốn. Tuy nhiên, kênh thoát vốn này có thể gây bất lợi cho ban quản lý công ty, bởi họ sẽ mất tính độc lập khi bị thôn tính hoặc bị sáp nhập với một công ty lớn hơn
- Mua lại cổ phần: là kênh thoát vốn phổ biến trong ĐTMH và rất quan trọng cho các nhà đầu tư. Đồng thời nó cũng cho phép công ty tiếp nhận vốn giành lại quyền kiểm soát sau khi sẽ phải chia sẻ và chịu sự chi phối của quỹ mạo hiểm. Khi tiến hành hình thức này, doanh nhân đối tác sẽ mua lại phần sở hữu của quỹ mạo hiểm trong doanh nghiệp với giá trị cao hơn mức định giá vốn cổ phần mà họ đang nắm giữ bằng cách vay vốn từ chính quỹ (cũng như từ bất kỳ nhà ĐTMH khác cùng tham gia). Họ sẽ trả nợ dần về sau bằng các khoản thu nhập lấy từ doanh nghiệp được mua lại và việc thanh toán nợ sẽ phải hoàn tất ở khâu kết thúc.
II. VAI TRÒ CỦA ĐTMH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sự biến đổi nhanh chóng và kì diệu của thế giới. Thời gian từ khâu nghiên cứu phát triển đến ứng dụng đưa vào sản xuất diễn ra rất nhanh chóng, và vòng đời của sản phẩm cũng giảm theo. Đối với doanh nghiệp, nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ có ý nghĩa sống còn để tồn tại và phát triển. Còn đối với các quốc gia làm chủ và đi đầu trong KHCN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế. Chính vì thế, các quốc gia trên thế giới luôn muốn tạo môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút nhiều vốn trong và ngoài nước nói chung đầu tư vào các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Và vốn ĐTMH nói riêng dành cho các doanh nghiệp (thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ SMEs) phát triển những công nghệ mới, mang tính sáng tạo cao nhưng rủi ro thất bại lại lớn. Như vậy, ĐTMH có ảnh hưởng trực tiếp đến các nhân tố sau:
1. Đối với doanh nghiệp ĐTMH có hai vai trò cơ bản:
Thứ nhất, cung cấp nguồn tài chính cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp công nghệ cao. Vì nhiều lí do khác nhau mà các tập đoàn lớn rất khó khăn trong việc triển khai thực hiện các dự án đổi mới sản phẩm công nghệ mang nhiều rủi ro. Trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại tỏ ra thành công hơn trong việc thực hiện các dự án này với sự hỗ trợ tài chính của nhà ĐTMH, vì nguồn vốn
ĐTMH không bắt buộc doanh nghiệp có dự án phải có tài sản thế chấp hay tín chấp như các nguồn vốn tín dụng truyền thống khác. Trong 5 giai đoạn cấp vốn của quá trình ĐTMH (đã trình bày ở phần trước) thì vốn tài trợ cho 3 giai đoạn đầu (giai đoạn vốn mồi/ươm tạo, giai đoạn đầu và giai đoạn khởi động) đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó tác động đến việc nuôi dưỡng những ý tưởng sáng tạo và giải quyết được sự khan hiếm của các nguồn vốn khác. Trong 3 giai đoạn này hệ thống ngân hàng hoàn toàn không thể cung cấp vốn cho các ý tưởng công nghệ mới do mức độ thất bại cao. Chỉ đến khi doanh nghiệp tiến hành mở rộng sản xuất, cung cấp sản phẩm ra thị trường thì lúc đó ngân hàng mới cung cấp vốn ở mức độ tương đối hạn chế cho doanh nghiệp.
Bảng 5: Nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp trong các giai đoạn9
Nghiên cứu và triển khai (vốn mồi/ươm tạo) | Thử nghiệm (khởi động & giai đoạn đầu) | Mở rộng sản xuất và tăng tốc | |
Các nguồn vốn chủ yếu | - Ngân sách nhà nước - Tài trợ của nhà tư bản cá nhân - ĐTMH | - Ngân sách nhà nước - ĐTMH | - Ngân hàng - Thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu) - ĐTMH |
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 305, tháng 10 năm 2003, tr 12 - 13. Vốn ĐTMH đã giúp các doanh nghiệp này tiến hành đổi mới sản xuất – kinh doanh, thúc đẩy quá trình doanh nghiệp tung sản phẩm ra thị trường cũng như niêm yết trên TTCK. Thực tế cho thấy hầu hết các hãng đi tiên phong trong việc sáng tạo và khai thác các thế hệ máy tính mới và sản phẩm phần mềm, góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng công nghệ mới và sự chuyển hướng trong các ngành công nghiệp như Intel, Microsoft, Yahoo, Apple, và gần đây là Google … khi khởi nghiệp đều nhận được vốn ĐTMH, công ty Apple trong thời kỳ ban đầu khởi nghiệp nhận được
400.000 USD vốn ĐTMH, công ty Yahoo nhận được 4 triệu USD. Trên thực tế ở Mỹ, không chỉ có các doanh nghiệp nói trên khi thành lập và phát triển phụ thuộc
9 Sơ đồ này chỉ đúng trong trường hợp người/tổ chức có ý tưởng sáng tạo, công nghệ mới nhưng không đủ tiềm lực để phát triển dự án của mình.
vào sự hỗ trợ của vốn mạo hiểm mà có ít nhất 50% doanh nghiệp công nghệ cao trong quá trình phát triển của mình đã nhận được sự giúp đỡ qua ĐTMH.
Như vậy sự thành công của các doanh nghiệp này không chỉ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và nhà cung cấp vốn ĐTMH mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế nói chung. Hoạt động ĐTMH ra đời đã kéo theo sự ra đời và hoàn thiện của một loạt các ngành khác như TTCK, các lĩnh vực công nghệ cao. Về mặt xã hội, sự xuất hiện của hoạt động ĐTMH tiến hành đầu tư vào các doanh nghiệp đã góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho rất nhiều người trong xã hội.
Thứ hai, hỗ trợ doanh nghiệp tiến hành những hoạt động kinh doanh. Không chỉ cung cấp vốn, các nhà ĐTMH còn hỗ trợ công tác quản trị doanh nghiệp như tuyển mộ đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, lập kế hoạch sản xuất, bán hàng, tiếp thị … ngoài ra họ còn tư vấn về mặt pháp lý như quyền sở hữu trí tuệ, bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa. Các nhà ĐTMH còn hỗ trợ cho việc phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp, tháo gỡ những khó khăn trong việc xin các thủ tục pháp lý cho các doanh nghiệp mới thành lập, cũng như những tranh chấp khi doanh nghiệp gặp phải trong hợp đồng … tất cả các hoạt động hỗ trợ này được nhà ĐTMH với mục tiêu cao nhất là đưa doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển nhanh, cuối cùng họ sẽ thu về lợi nhuận từ khoản đầu tư đã bỏ ra.
2. Đối với thị trường tài chính nói chung, và thị trường chứng khoán nói riêng
ĐTMH là một dạng kinh doanh vốn nên nó là một bộ phận quan trọng và không thể tách rời với thị trường tài chính. Với đặc thù là rút vốn và thu lợi nhuận thông qua TTCK là chủ yếu, ĐTMH đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng.
ĐTMH góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường IPO. Một trong những phương thức thoát vốn quan trọng và phổ biến nhất của ĐTMH là chào bán cổ phiếu của công ty nhận đầu tư ra công chúng, tức là biến các công ty đó từ hình thức công ty cổ phần tư nhân trở thành công ty đại chúng. Đây là một cách thoát vốn đặc thù của loại hình ĐTMH, xuất phát từ một đặc điểm của loại quỹ này là lấy các công ty cổ phần tư nhân mới thành lập hoặc đang trong thời kỳ tăng trưởng làm mục tiêu đầu tư chủ yếu. Thậm chí, việc một công ty cổ phần tư nhân được tài trợ
bằng nguồn vốn ĐTMH được chuyển thành công ty đại chúng còn được xem như một trong những yếu tố chứng minh cho sự thành công của bản thân quỹ ĐTMH. Tuy nhiên, quan hệ giữa quỹ ĐTMH và thị trường IPO không chỉ đơn thuần là quan hệ một chiều mà trái lại, chúng có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Muốn chuyển công ty từ hình thức sở hữu tư nhân thành công ty đại chúng đòi hỏi phải có một thị trường IPO hoạt động tích cực. Ngược lại, thị trường IPO phát triển cũng là một trong những điều kiện cần thiết để tạo tiền đề cho hoạt động ĐTMH phát huy được vai trò của nó.
Ngoài ra, ĐTMH còn có mối quan hệ tương hỗ qua lại với các thể chế tài chính khác như ngân hàng, bảo hiểm, v.v… Cho nên, nếu ĐTMH hoạt động tốt thì cũng có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức tài chính này và kéo theo đó là sự ổn định của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.
3. Đối với quá trình đổi mới công nghệ
Mối quan hệ giữa ĐTMH và việc đổi mới công nghệ xuất phát từ đặc điểm của ĐTMH là chuyên đầu tư vào những dự án có ý tưởng táo bạo, cần nhiều vốn lớn, mà công nghệ cao là một lĩnh vực đạt được những tiêu chuẩn này. Có nhiều yếu tố góp phần tăng trưởng kinh tế như chất lượng của lao động và vốn, tiến bộ công nghệ, mức độ cạnh tranh, lợi ích kinh tế nhờ quy mô, việc tái phân bổ nguồn lực, chính sách kinh tế, v.v... trong đó yếu tố công nghệ đóng vai trò quan trọng. Thật vậy, nó góp phần tăng năng suất lao động của yếu tố lao động và vốn, nếu việc đầu tư cho khoa học công nghệ là hiệu quả, và do đó, tất yếu dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, việc đầu tư đổi mới công nghệ đòi hỏi phải gia tăng nguồn vốn đầu tư. Ở các nước đang phát triển vấn đề thiếu vốn để phát triển khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế trở thành một vòng luẩn quẩn. Để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó đòi hỏi nhà nước cần có chính sách thu hút vốn đầu tư đổi mới công nghệ một cách có hiệu quả nhất. Có nhiều nguồn vốn khác nhau tài trợ cho việc đổi mới công nghệ. Trong đó vốn mạo hiểm là một trong những nguồn tài trợ then chốt thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ, làm tăng nhân tố năng
suất tổng hợp TFP10 và do đó thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế.
Việc thu hút vốn đầu tư mạo hiểm, nhất là từ các nguồn nước ngoài và từ khu vực tư nhân trong nước, trước hết sẽ làm giảm áp lực về vốn đầu tư cho hoạt động đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó kỹ năng cũng như kinh nghiệm quản lý của nhà ĐTMH sẽ dẫn đến vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả cho quá trình phát triển và ứng dụng công nghệ vào các hoạt động kinh tế. Ngoài ra việc đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ sẽ tạo cơ hội cho sự phát triển các ngành nghề mới, các doanh nghiệp mới, do đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững.
Bên cạnh đó vốn ĐTMH cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức như các định chế tài chính, các trường đại học, các doanh nghiệp định hướng công nghệ, các tập đoàn công nghiệp và tạo thành một “mạng lưới phức tạp”. Các mắc xích trong mạng lưới này liên kết chặt chẽ nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Sự phát triển về chiều sâu và chiều rộng của mạng lưới này góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ, đổi mới hệ thống giáo dục, phát triển thị trường tài chính, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực phát triển và ứng dụng công nghệ và do đó góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Hơn nữa sự vận hành có hiệu quả của tổ chức đầu tư mạo hiểm và các tổ chức trong mạng lưới sẽ hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng, góp phần giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế trong quá trình đổi mới.
Đối với các nước đang phát triển, khi mà thị trường tài chính chưa phát triển, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ chưa được chú trọng và đầu tư, và nguồn lực khoa học công nghệ đang bị lãng phí thì có thể nói ĐTMH là một giải pháp quan trọng nhằm phát triển các yếu tố này để đạt được sự tăng trưởng kinh tế tốt nhất.
10 Nhân tố tổng hợp TFP – Total factor productivity (A) trong công thức đầu ra sản phẩm của Cobb- Douglass: Y= AxKαxL1-α trong đó K, L là các yếu tố đầu vào vốn và lao động.