Quỹ Đtmh Và Các Hình Thức Hoạt Động Của Quỹ Đtmh


người có vốn bỏ ra ĐTMH và lặp lại hành động đó (phát triển nguồn cung), (3) phát huy triệt để năng lực đặc biệt của các nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp (đảm bảo hiệu quả đầu tư).

3. Quy trình ĐTMH

a. Lựa chọn dự án

Cách thức tuyển chọn dự án

Thực chất, hiệu quả hoạt động của ĐTMH phụ thuộc vào sự thành công của các dự án đầu tư. Hay nói một cách khác, những người đầu tư và nhà quản lý sẽ được hưởng lợi nhuận nếu những dự án công nghệ mà họ đầu tư hoạt động tốt và mang lại lợi nhuận lớn. Dự án công nghệ tốt sẽ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư và các nhà quản lý từ đó sẽ khuyến khích nhiều nhà đầu tư tham gia cung cấp vốn cho ĐTMH và nhiều doanh nghiệp muốn nhận được nguồn vốn mạo hiểm. Chính vì vậy, việc lựa chọn dự án đầu tư rất được chú trọng. Quỹ ĐTMH sẽ căn cứ vào những tiêu chí nhất định để lựa chọn các dự án đầu tư phù hợp và có hiệu quả kinh tế cao. Thường thường, những dự án được tài trợ phải có ý tưởng rõ ràng về công nghệ mới/sản phẩm mới và về thị trường.

Các tiêu chí thẩm định dự án

- Mức độ hấp dẫn của thị trường (hay quy mô thị trường)

- Tính độc đáo của sản phẩm

- Năng lực của đội ngũ quản lý

- Quy mô vốn đầu tư

- Rủi ro và lợi nhuận

b. Phân đoạn cấp vốn

Cơ chế này giải quyết mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Quỹ ĐTMH. Quỹ ĐTMH không tài trợ một lần cho dự án mà giai đoạn đầu sẽ tài trợ một phần cho dự án, nếu công ty thấy khoản đầu tư mang lại những kết quả theo đúng nhận định/cam kết thì sẽ tiếp tục đầu tư trong giai đoạn tiếp theo. Có thể chia quá trình đầu tư đầy


đủ thành 5 giai đoạn3: tài trợ vốn mồi/ươm tạo, tài trợ khởi động, tài trợ giai đoạn đầu, tài trợ mở rộng và tài trợ tăng tốc. Trong đó:

Tài trợ vốn mồi, ươm tạo (seed financing): Quỹ cấp vốn cho những doanh nghiệp để phát triển ý tưởng sáng tạo/phát minh sáng chế của mình, hoặc cấp vốn để hỗ trợ phát triển sản phẩm. Vốn cấp ở giai đoạn này thường không lớn.

Tài trợ khởi động (start-up financing): cấp vốn để phát triển sản phẩm và hoạt động tiếp thị khởi đầu. Vốn này cấp cho những công ty mới được thành lập, chưa lần nào giới thiệu sản phẩm ra thị trường. Những doanh nghiệp như vậy thường đã có bộ máy quản lý, có kế hoạch kinh doanh và đã có nghiên cứu thị trường.

Tài trợ giai đoạn đầu (First-stage financing): tài trợ cho công ty thiếu vốn để sản xuất hàng hoá và tung ra thị trường.

Tài trợ giai đoạn mở rộng sản xuất (expansion financing): Quỹ ĐTMH tài trợ cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, mở rộng phạm vi thị trường; hoặc phát triển nâng cấp một sản phẩm và tài trợ cho công ty chuẩn bị niêm yết lần đầu trong vòng 6 tháng đến 1 năm tới. Đồng thời Quỹ cũng giúp doanh nghiệp xây dựng cơ cấu sở hữu hợp lý của doanh nghiệp. Giai đoạn này đã bắt đầu mang lại lợi nhuận tài chính cho các bên, kể cả lợi ích về xây dựng năng lực công nghệ cao, cho nền kinh tế.

Giai đoạn tài trợ tăng tốc: là giai đoạn đưa doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường bằng các hoạt động kinh doanh tăng tốc, tạo sản phẩm mới. Thị trường chứng khoán thường đóng vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường trong giai đoạn này.


3 Lawrence Rausch, 2002, tr8. Việc phân chia chỉ mang tính tương đối và tuỳ thuộc vào quyết định của từng quỹ. Phân chia càng nhỏ sẽ càng giảm mức độ rủi ro cho quỹ nhưng trong nhiều trường hợp có thể không cần thiết. Có tài liệu chỉ chia thành 3 giai đoạn tài trợ trong đó gộp thành giai đoạn khởi động và giai đoạn đầu làm một, giai đoạn mở rộng và giai đoạn tăng tốc làm một


Bảng 2

Rủi ro và lợi nhuận dự kiến trong quy trình vốn mạo hiểm


Khả năng rủi ro

Cao nhất Thấp nhất

Ươm tạo công nghệ Phát triển sản phẩm LBO4

Giai đoạn

% ROI5 dự kiến

50% 40% 30%

Cao nhất Thấp nhất

Khả năng lợi nhuận

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 3

c. Kết thúc đầu tư (hay còn gọi là thoát vốn)

Vốn mạo hiểm hoạt động theo chu kỳ, và mỗi chu kỳ thường kết thúc bằng một đợt thoát vốn, tức là việc các nhà tư bản mạo hiểm tiến hành thanh lý các khoản đầu tư, thu hồi vốn và lãi (nếu có) để phân phối cho các bên tham gia. Thoát vốn là một khâu quan trọng, không chỉ bởi vì nó thoả mãn những lợi ích của các bên tham gia mà còn vì nó sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn đóng góp tài chính và phi tài chính của các nhà tư bản mạo hiểm do việc quay vòng vốn để hỗ trợ cho một thế hệ công ty khởi nghiệp mới. Chính vì vậy đây là một nét đặc thù của kênh dẫn vốn này.

Thoát vốn cũng có tác động tới mối quan hệ giữa một quỹ mạo hiểm và các nhà đầu tư vào quỹ. Thoát vốn đáp ứng ba vấn đề trong mối quan hệ nhà tư bản mạo hiểm – nhà cung cấp vốn. Một là, những người cung cấp vốn cần có một phương thức để đánh giá kỹ năng của nhà tư bản mạo hiểm, để còn quyết định sẽ cung cấp những lượng tiền mới cho những nhà quản trị nào. Hai là, những người cung câp vốn cần phải đánh giá rủi ro và lợi nhuận trên các khoản đầu tư vốn mạo hiểm trong tương quan với các khoản đầu tư khác, để quyết định có đầu tư hay không và đầu tư bao nhiêu. Ba là, các nhà cung cấp vốn cần có khả năng rút lại vốn từ các nhà quản trị kém thành công. Việc các quỹ mạo hiểm thoát vốn khỏi những danh mục đầu tư cụ thể sẽ tạo ra một tiêu chuẩn so sánh cho phép những nhà cung cấp vốn đánh giá cả kỹ năng của nhà tư bản mạo hiểm khác nhau cũng như khả năng thu lợi nhuận của vốn mạo hiểm so với những khoản đầu tư khác. Đồng thời, việc thanh toán số tiền nhận được sau khi thoát vốn cho các nhà cung cấp vốn sẽ cho phép họ quay

4 LBO: Leverage buy ouy – Mua lại nhờ vốn vay

5 ROI: Return on investment – Suất sinh lời của vốn đầu tư


vòng quỹ từ những nhà quản trị vốn mạo hiểm ít thành công sang các nhà quản trị thành công hơn.

Các kênh thoát vốn

- Chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO): là việc một công ty lần đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán và bán cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng. Nếu một công ty trẻ phát đạt và cần thêm vốn cổ phần thì đây là một việc đáng làm

Kênh thoát vốn này, mặc dù đòi hỏi những khoản chi phí không nhỏ, là kênh được ưa thích vì nói chung, nó đem lại sự định giá cao nhất đối với công ty trong khi vẫn bảo toàn được tính độc lập của ban quản lý. Tiềm năng thoát vốn thông qua hình thức IPO cho phép người khởi nghiệp và quỹ vốn mạo hiểm tham gia vào một hợp đồng ngầm tự động có hiệu lực đối với vấn đề kiểm soát, trong khi đó quỹ vốn mạo hiểm thoả thuận trả lại quyền kiểm soát cho doanh nghiệp khởi nghiệp thành công, bằng cách thoát vốn thông qua hình thức IPO với giả định là người khởi nghiệp sẽ giữ lại quyền kiểm soát đối với một khối lượng cổ phần đủ lớn.

Thông qua hình thức IPO, phần đóng góp của quỹ mạo hiểm bị giảm đi và doanh nghiệp tiếp nhận vốn sẽ không còn bị phụ thuộc vào sự tài trợ theo giai đoạn của nhà tư bản mạo hiểm nữa. IPO giảm bớt những hạn chế về tính thanh khoản của doanh nghiệp khởi nghiệp và thị trường cổ phiếu giảm bớt nhu cầu về sự giám sát chặt chẽ của nhà tư bản mạo hiểm. Cuối cùng, hợp đồng công khai giữa quỹ mạo hiểm và công ty tiếp nhận vốn đảm bảo rằng những quyền kiểm soát quan trọng mà lúc đầu được trao cho quỹ sẽ mất đi sau khi áp dụng hình thức IPO, bất kể quỹ có bán cổ phần hay không.

- Bán thương mại: là kênh thoát vốn khá phổ biến, nhất là ở châu Âu nơi mà đa số các quốc gia đều có thị trường tài chính dựa vào ngân hàng là chính. Đó là việc bán (hoặc sáp nhập) một công ty mới cho công ty khác lớn hơn. Cách này hấp dẫn cả các thành viên hợp danh hữu hạn và thành viên quản lý đầu tư vốn, bởi nó là sự hoàn trả tiền hoặc các chứng khoán dễ mua bán, và kết thúc sự tham gia của thành viên hợp danh vào quỹ mạo hiểm. So với kênh thoát vốn chào bán lần đầu ra công chúng (IPO), bán thương mại được coi là phương thức nhanh và rẻ hơn.


Những công ty lớn, đặc biệt là các công ty đã có sản phẩm hoàn chỉnh và các luồng thu nhập ổn định, thường quan tâm nhiều tới việc mua những doanh nghiệp mới khởi sự có khả năng lợi nhuận hơn là xây dựng từ đầu những doanh nghiệp mới. Phương thức này xác nhận khả năng được tái tài trợ bởi một nhà đầu tư mới tại thời điểm kết thúc một quỹ đóng, trong khi cũng đảm bảo được sự định giá độc lập. Ngoài ra, nó cho phép ban quản lý của doanh nghiệp nhận đầu tư vẫn ở lại ngay cả khi không lựa chọn IPO, và cho phép một doanh nghiệp được tái vay vốn. Tuy nhiên, kênh thoát vốn này thể hiện một bất lợi thế quan trọng của ban quản lý công ty, bởi họ sẽ mất tính độc lập khi bị thôn tính hoặc bị sáp nhập với một công ty lớn hơn

- Mua lại cổ phần: là kênh thoát vốn phổ biến trong ĐTMH và rất quan trọng cho các nhà đầu tư. Đồng thời nó cũng cho phép công ty tiếp nhận vốn giành lại quyền kiểm soát sau khi sẽ phải chia sẻ và chịu sự chi phối của quỹ mạo hiểm. Khi tiến hành hình thức này, doanh nhân đối tác sẽ mua lại phần sở hữu của quỹ mạo hiểm trong doanh nghiệp với giá trị cao hơn mức định giá vốn cổ phần mà họ đang nắm giữ bằng cách vay vốn từ chính quỹ (cũng như từ bất kỳ nhà ĐTMH khác cùng tham gia). Họ sẽ trả nợ dần về sau bằng các khoản thu nhập lấy từ doanh nghiệp được mua lại và việc thanh toán nợ sẽ phải hoàn tất ở khâu kết thúc

III.Quỹ ĐTMH và các hình thức hoạt động của quỹ ĐTMH

1. Quỹ ĐTMH.

Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa quỹ ĐTMH khác nhau, nhưng một trong những định nghĩa phổ biến nhất coi quỹ ĐTMH là một tập hợp vốn nằm dưới sự quản lý chuyên nghiệp, được huy động vì mục đích duy nhất là thực hiện những khoản đầu tư vốn cổ phần trực tiếp, có quản lý một cách chủ động vào các công ty tư nhân tăng trưởng nhanh và với một chiến lược thoát vốn đã được xác định rõ ràng.

Quỹ ĐTMH là một loại hình quỹ đầu tư có tính chuyên biệt hoá (specialised funds). Điều đó thể hiện ở việc nó chuyên cấp vốn theo phương thức ĐTMH vào một số lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh và chủ yếu là các nghành công nghệ cao. Do đó, cũng có thể coi nó là một loại quỹ tăng trưởng. Ngoài ra một số quỹ


ĐTMH cũng chuyên biệt cả theo hướng đầu tư vào một địa bàn nào đó hoặc một quốc gia nào đó (country fund), có quỹ chuyên đầu tư vào một quỹ mạo hiểm khác nhằm chia nhỏ rủi ro, gọi là quỹ trung gian (fund of funds).

Một điểm đáng chú ý khi đề cập tới khái niệm quỹ ĐTMH là khái niệm này cần được phân biệt với khái niệm quỹ đầu tư vốn cổ phần tư nhân (Private equity fund). Ở Mỹ, đây là hai khái niệm tương đối độc lập và phân biệt với nhau. Quỹ cổ phần tư nhân bao gồm những quỹ mà vốn góp hình thành nên do quỹ đó được dành cho nhiều hoạt động khác nhau: đầu tư mạo hiểm, mua cổ phiếu giành quyền kiểm soát bằng cách sử dụng đòn bẩy, các vụ sáp nhập, đầu tư sử dụng nợ thứ cấp có quyền ưu tiên thấp hơn nợ ngân hàng nhưng lại cao hơn so với chứng khoán vốn cổ phần và thường gắn kèm chứng quyền, đầu tư vào chứng khoán nợ mà tổ chức phát hành có nhiều nguy cơ bị mất khả năng thanh toán (chiến lược đầu tư nhằm mua trái phiếu chiết khấu của một công ty bị cạn kiệt về mặt tài chính, sau đó chuyển các chứng khoán đang nắm giữ thành chứng khoán vốn cổ phần và chủ động tham gia vào quản lý công ty đó) và nhiều hoạt động hỗn hợp khác như cho thuê tài sản mạo hiểm và mua nợ mạo hiểm (mua các khoản phải thu của những công ty non trẻ có độ rủi ro cao). Còn khái niệm quỹ ĐTMH chủ yếu được dành cho những quỹ đầu tư vào vốn cổ phần và những sản phẩm có liên quan đến vốn cổ phần trong các công ty định hướng tăng trưởng. Tuy nhiên, ở một số khu vực khác, chẳng hạn như châu Âu là nơi hoạt động của các quỹ đầu tư cũng tương đối phát triển, khái niệm quỹ ĐTMH và quỹ cổ phần tư nhân thường được sử dụng thay thế nhau và không được phân biệt rõ ràng.

Về nguyên tắc, quỹ cổ phần tư nhân có thể đầu tư vào một công ty ở mọi giai đoạn như: hình thành ý tưởng, khởi sự, mở rộng, mua lại hoặc sáp nhập, cứu vãn hoặc xoay chuyển tình thế, mua lại cổ phiếu đã niêm yết, v.v… Còn quỹ ĐTMH thường tập trung vào các công ty ở giai đoanh hình thành ý tưởng, thành lập, khởi sự và mở rộng.

2. Đặc điểm của quỹ đầu tư mạo hiểm

Quỹ ĐTMH thường gắn liền với nguồn vốn mạo hiểm và hoạt động ĐTMH. Vì vậy, đặc điểm của quỹ ĐTMH cũng không tách rời và được bắt nguồn từ chính


những đặc điểm của hoạt động trên. Có thể nêu ra ở đây ba đặc điểm nổi bật của quỹ ĐTMH so với các loại hình quỹ đầu tư thông thường khác.

Tính rủi ro của các khoản đầu tư: ĐTMH là một hoạt động có tính rủi ro rất cao do đối tượng được nhận vốn đầu tư của các quỹ ĐTMH chủ yếu là những công ty tư nhân mới thành lập hoặc hoạt động trong những lĩnh vực mới hình thành. Sự rủi ro xuất phát từ bốn yếu tố, cũng đồng thời là bốn đặc điểm của các công ty nhận đầu tư, đó là: Sự không chắc chắn, thông tin không cân xứng, tính chất của tài sản và các điều kiện trong thị trường tài chính và thị trường sản phẩm có liên quan. Các công ty được đầu tư thường có số tài sản vô hình chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản, đó là những tài sản rất khó định giá và có thể không bán được trong trường hợp hoạt động kinh doanh của công ty bị thất bại. Điều kiện thị trường của các ngành được đầu tư cũng có tính biến động rất cao. Có những ngành mà sản phẩm mới còn ở trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm chứ chưa được công chúng thừa nhận rộng rãi. Sự không chắc chắn về thành công của sản phẩm, về phản ứng của đối thủ cạnh tranh cũng như của khách hàng. Do đó, thành công của công ty nhận vốn đầu tư, và kéo theo đó là lợi nhuận mà nhà đầu tư kỳ vọng nhận được trong tương lai, cũng có tính không chắc chắn rất cao.

Thời hạn của các khoản đầu tư: Các khoản đầu tư của các quỹ ĐTMH thường là những khoản đầu tư trung đến dài hạn. Đối tượng nhận vốn đầu tư của các quỹ ĐTMH chủ yếu là các công ty cổ phần tư nhân, chưa được niêm yết trên thị trường chứng khoán, thậm chí mới ở giai đoạn hình thành ý tưởng. Để đi đến được cái đích cuối cùng của quỹ là thực hiện một chiến lược thoát vốn hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho các nhà đầu tư vào quỹ từ khoản vốn bỏ ra ban đầu, các công ty đó phải đạt được sự phát triển ở mức độ nhất định sao cho cổ phiếu của chúng trở nên có sức hấp dẫn. Điều này đòi hỏi một khoảng thời gian cần thiết cho sự tích luỹ mở rộng, có thể kéo dài một vài năm, hoặc đến bảy hay mười năm.

Người đầu tư: hai đặc điểm trên dẫn đến đặc điểm thứ ba của quỹ ĐTMH, đó là đặc điểm về người đầu tư. Do các khoản đầu tư mà quỹ ĐTMH thực hiện vừa có tính rủi ro cao vừa là những khoản đầu tư dài hạn nên không phải bất kỳ ai có một khoản tiền tiết kiệm trong tay cũng có thể tham gia vào các quỹ này như


trong trường hợp của quỹ tương hỗ. Người đầu tư vào quỹ thường là các định chế (nhà đầu tư có tổ chức) như các quỹ hưu trí, quỹ bảo trợ của các trường đại học, công ty bảo hiểm, công ty kinh doanh thông thường hoặc một số ít những cá nhân giàu có. Đặc biệt, các nhà đầu tư có tổ chức là đối tượng có vai trò quan trọng do họ có số vốn lớn, có khả năng thực hiện sự đa dạng hoá và có thể chấp nhận đầu tư dài hạn.

Bảng 4

So sánh quỹ đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư chứng khoán

Loại quỹ

Quỹ đầu tư mạo hiểm

Quỹ đầu tư chứng khoán

Cơ cấu huy động vốn

Kết thúc đóng

Kết thúc đóng hoặc mở

Hình thức đầu tư

Đầu tư trực tiếp (vốn cổ phần – vốn góp

Theo danh mục đầu tư (cổ

phiếu, trái phiếu…đã niêm yết

Đối tượng đầu tư

Các dự án, doanh nghiệp nhỏ, chưa niêm yết, chủ yếu trong lĩnh vực có tiềm

năng tăng trưởng nhanh như công nghệ cao

Các doanh nghiệp đã phát hành chứng khoán ra công chúng

Quy mô vốn trung bình

Nhỏ, từ vài triệu đến vài

chục triệu USD

Lớn hơn, từ vài chục đến

hàng trăm triệu USD


3. Chức năng của quỹ ĐTMH

a. Nhóm chức năng tài chính của quỹ ĐTMH

Huy động vốn: tuỳ thuộc vào hình thúc tổ chức pháp lý, quỹ ĐTMH được lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn mà pháp luật cho phép như phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nếu được tổ chức theo kiểu doanh nghiệp), chứng chỉ quỹ đầu tư (nếu theo kiểu tín thác đầu tư), vay vốn các tổ chức tín dụng theo quy định

Cấp vốn mạo hiểm dưới các hình thức

- Hợp đồng khoa học và công nghệ: Việc triển khai dự án cấp vốn mạo hiểm dưới hình thức này cho phép giải phóng tối đa các nguồn lực khoa học và công nghệ được tham gia vào hoạt động phát triển và đổi mới công nghệ. Trong hình thức hợp đồng khoa học công nghệ cần chú trọng hơn cả đến loại hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mà kết quả sẽ là cơ sở để tiến tới thoả thuận thành lập

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 03/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí