Hoạt Động Của Hđdt, Các Ủy Ban Đặt Trong Mối Quan Hệ Với Hoạt Động Của Các Cơ Quan, Tổ Chức Hữu Quan


tư vấn như thế? Rõ ràng, đây có thể là một số trong những nguy cơ trong hoạt động của Hội đồng, Ủy ban xuất phát từ việc xác lập tư cách thành viên mà không gắn với việc bảo đảm đầy đủ yếu tố chuyên môn, phẩm chất, năng lực hoạt động.

Bên cạnh đó, những kinh nghiệm về hoạt động của thành viên Ủy ban của cơ quan lập pháp một số nước cho thấy những nội dung đáng chú ý. Thứ nhất, ở khâu đầu vào, về tiêu chí lựa chọn nhân sự Ủy ban, thông thường, các yếu tố về địa bàn lãnh thổ, kinh nghiệm, uy tín và phẩm chất chính trị...hay được quan tâm và sử dụng ở những mức độ khác nhau ở từng quốc gia. Đối với việc lựa chọn nhân sự Chủ tịch, thành viên Ủy ban của QH Hoa Kỳ [86, tr.714-715], bên cạnh việc xem xét lựa chọn dựa trên các yếu tố: địa bàn (bang và khu vực), lòng trung thành với đảng, kinh nghiệm lập pháp, ảnh hưởng của thành viên đối với các đồng nghiệp, thì thâm niên là điều rõ ràng và quan trọng nhất trong việc lựa chọn nhân sự, mặc dù các tiêu chí này chưa được quy định trong một văn bản chính thức mà chỉ được vận hành, phát triển trong thực tế như một truyền thống. Tương tự, về yếu tố kinh nghiệm và thâm niên, trong hệ thống các Ủy ban trong Nghị viện Châu Âu, theo Richard Whitaker, thì các thành viên có thâm niên và kinh nghiệm nhiều hơn thường có nhiều khả năng để duy trì vị trí thành viên Ủy ban mà họ quan tâm [127, p.34]. Thứ hai, về cơ cấu thành viên, khi nghiên cứu về các Ủy ban của Nghị viện Anh, William McKay và Charles W.Johnson (2012) trong Parliament and Congress: Representation adn Scrutiny in the Thwenty-first Century đã nhận xét nhìn chung, để duy trì một Ủy ban cùng nhau làm việc và cùng cho phép mọi thành viên cơ hội tranh luận, thì một cơ cấu thành viên Ủy ban nhỏ hơn xét về tổng thể vẫn tốt hơn, và điều mấu chốt là sự tham dự của các thành viên vào hoạt động của Ủy ban phải thường xuyên. Về mặt số lượng, mặc dù không có quy định về số lượng cụ thể các thành viên đối với các Ủy ban thường trực của Hạ viện, song trong thực tế, con số này ở trong khoảng từ 9 đến 33 thành viên trong mỗi Ủy ban. Thực tế khảo sát việc tham dự của các thành viên Ủy ban của Hạ viện Anh gần đây cho thấy chỉ có 4 Ủy ban ghi nhận sự tham dự của trên 70% các thành viên vào các phiên họp và 4 ủy ban phản ánh sự tham dự của dưới 60% thành viên vào các hoạt động chung của Ủy ban và điều đó đưa đến một nhận định là số lượng thành viên của các Ủy ban nên giảm đi [129, p.365]. Thứ ba, về sự bình đẳng giữa các thành viên, nhìn chung, các thành viên Ủy ban có quyền và nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia vào các hoạt động của Ủy ban. Tuy nhiên, trong thực tế, ở các quốc gia khác nhau, thậm chí ở ngay cả những quốc gia được cho là thường coi trọng và nêu cao


các giá trị về dân chủ, trong nhiều trường hợp yếu tố bình đẳng trong hoạt động giữa các thành viên của Ủy ban nhiều khi chỉ mang tính tương đối, điển hình trong trường hợp này là QH Hoa Kỳ, nơi các vị chủ tịch Ủy ban được coi là “những người thống trị Quốc hội” [49, tr.103]. Từ những thực tế này, có thể thấy rằng rất khó khăn để chỉ ra một khuôn mẫu chung đối với hoạt động của các thành viên Ủy ban, mà tùy thuộc vào điều kiện cụ thể ở từng quốc gia, hoạt động của các thành viên trong hệ thống Ủy ban của QH có những đặc điểm riêng.

2.2.4. Hoạt động của HĐDT, các Ủy ban đặt trong mối quan hệ với hoạt động của các cơ quan, tổ chức hữu quan

2.2.4.1. Mối quan hệ giữa hoạt động của HĐDT, các Ủy ban và hoạt động của QH

Về khía cạnh tổ chức, Hội đồng, Ủy ban là các cơ quan do QH thành lập, có vị trí vai trò tư vấn, tham mưu cho QH trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ngoại trừ vị trí, vai trò đặc thù của HĐDT đã được định rõ trong Hiến pháp, QH có vai trò quyết định trong việc thành lập, giải thể Ủy ban của QH, quyết định về nhân sự của Chủ tịch Hội đồng, Chủ nhiệm Ủy ban và đặc biệt là quy định cụ thể về khuôn khổ pháp lý làm nền tảng cho hoạt động của Hội đồng, Ủy ban.

Về nhiệm vụ, quyền hạn, QH, UBTVQH là những chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy định về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng, Ủy ban. Nếu tách riêng về khía cạnh hoạt động, QH là chủ thể có thẩm quyền “giao việc” cho Hội đồng, Ủy ban; Hội đồng, Ủy ban có trách nhiệm thực hiện các quyết định của QH. Theo quy định tại Điều 39 Quy chế hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của QH (ban hành kèm theo Nghị quyết số 27/2004/QH11 của QH khóa XI), Hội đồng, Ủy ban thực hiện chế độ gửi báo cáo công tác của mình đến ĐBQH tại kỳ họp giữa năm và cuối năm; gửi báo cáo tổng kết hoạt động nhiệm kỳ của mình đến ĐBQH và khi cần thiết, QH tiến hành xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Hội đồng, Ủy ban. Bên cạnh đó, trong một chừng mực nào đó, Hội đồng, Ủy ban lại có vai trò chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Nhìn chung, có thể nói về mặt pháp lý và thực tế, QH không tác động trực tiếp vào quá trình này. Bản chất mối quan hệ này cho phép HĐDT, các Ủy ban có thể làm tốt vị trí, vai trò là các cơ quan tham mưu, tư vấn cho QH trong các lĩnh vực cụ thể.

Về bản chất, mối quan hệ giữa Hội đồng, Ủy ban với QH là mối quan hệ giữa một bên là chủ thể sử dụng kết quả tư vấn, tham mưu và một bên là chủ thể thực hiện hoạt động tư vấn, tham mưu. Hay ở một khía cạnh khác, đó là quan hệ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.


giữa chủ thể có thẩm quyền quyết định và chủ thể có nhiệm vụ tư vấn, tham mưu về chuyên môn. Xu thế phát triển về mặt pháp lý và thực tế về thẩm quyền của Hội đồng, Ủy ban trong những năm gần đây là một thực tế, song điều này cần được nhìn nhận dưới giác độ là sự phân công phân nhiệm trong nội bộ cơ quan thực hiện quyền lập pháp, ở góc độ chuẩn bị, tham mưu tư vấn chứ Hội đồng, Ủy ban không thể thay thế được vai trò của QH trong việc thực hiện chức năng lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Với vị trí là cơ quan đóng vai trò tư vấn, tham mưu về chuyên môn cho QH trong các lĩnh vực, về nguyên lý, các Ủy ban cần tham gia tối đa vào các lĩnh vực hoạt động cụ thể của QH.

Hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - 11

2.2.4.2. Mối quan hệ giữa hoạt động của HĐDT, các Ủy ban với hoạt động của UBTVQH

Về phương diện tổ chức, sự tồn tại và vận hành của một cơ chế đóng vai trò điều phối hoạt động của Hội đồng, Ủy ban là một thực tế khách quan. Có thể nói, là các cơ quan chuyên môn của QH, hoạt động của Hội đồng, Ủy ban của QH có đặc thù phân tán, là sự sắp xếp, cơ cấu các hoạt động của QH theo các lĩnh vực khác nhau và nhìn chung là khá riêng rẽ; HĐDT, các Ủy ban có vị trí độc lập tương đối, có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mình. Sự “phân mảng” trong hoạt động của hệ thống Ủy ban của QH theo cách này rõ ràng có những trở ngại khách quan, nhận xét của George E.Browm về hệ thống các Ủy ban ở QH Hoa Kỳ có thể phần nào minh chứng cho điều này: “Để đạt được hiệu quả của lập pháp, chúng tôi phải nói rằng phải chia nhỏ chúng thành các ủy ban với phạm vi tài phán được chuyên môn hóa. Khi làm như thế, người ta đã mất đi khả năng xử lý các vấn đề lớn” [9, tr.457]. Mặc dù không tồn tại một thiết chế đóng vai trò tương tự như UBTVQH ở nước ta, song trên thực tế, việc điều phối trong quá trình hoạch định chính sách trong hoạt động giữa các Ủy ban của QH Mỹ vẫn diễn ra và mất không ít thời gian với vai trò và sự vận hành của các lực lượng chính trị [9, tr.457-458]. Có thể nói, việc chỉ đạo, điều phối hoạt động giữa HĐDT, các Ủy ban của QH là đòi hỏi, là cách thức để bảo đảm hoạt động của các cơ quan này đạt được hiệu quả cao nhất trong việc tham mưu, tư vấn về chuyên môn để giúp thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của QH nói chung.

Ở nước ta, mối quan hệ hoạt động giữa HĐDT, các Ủy ban với UBTVQH là mối quan hệ mà trong đó, UBTVQH chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của HĐDT, các Uỷ ban; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của ĐBQH. Trong những nghiên cứu và tranh luận gần đây, về vị trí, vai trò của UBTVQH trong mối quan hệ với HĐDT, các Ủy ban, có một số ý kiến cho rằng không nên xem


UBTVQH là cấp trên của HĐDT, các Ủy ban. Trong bài “Đề nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về UBTVQH trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” đăng trên Báo Đại biểu nhân dân số ra ngày 26-3-2013, TS Vũ Đức Khiển đề nghị bỏ quy định UBTVQH “lãnh đạo công tác của HĐDT và các Ủy ban của QH” [36]. Quan điểm này có thể được lý giải bởi mong muốn khắc phục sự giao thoa về thẩm quyền, chú trọng đến việc đề cao tính độc lập trong hoạt động của HĐDT, các Ủy ban.

Về vấn đề này, có thể thấy phù hợp với đặc điểm của QH là thiết chế hoạt động không thường xuyên, vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của UBTVQH đối với hoạt động của HĐDT, các Ủy ban đã được quy định từ khá sớm trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật và thực tế đã chứng minh sự cần thiết, đúng đắn của vấn đề này. Bên cạnh ý nghĩa về các công việc chuyên môn của QH, vai trò của UBTVQH trong hoạt động này ở khía cạnh chính trị còn là thiết chế quan trọng góp phần bảo đảm và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của QH nói chung và hoạt động của HĐDT, các Ủy ban nói riêng. Hiến pháp năm 2013 (Điểm 5 Điều 74) tiếp tục ghi nhận vai trò, trách nhiệm của UBTVQH trong việc chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của HĐDT và các Ủy ban.

2.2.4.3. Hoạt động phối hợp giữa HĐDT, các Ủy ban

Hoạt động tham gia, phối hợp giữa Hội đồng, các Ủy ban xuất phát từ nhu cầu thực tế khi nội dung một công việc do một Ủy ban (hay Hội đồng) đảm nhiệm có nội dung, tính chất quan trọng, phức tạp, có khối lượng công việc lớn...mà nếu để một cơ quan thực hiện một cách đơn lẻ thì sẽ không bảo đảm chất lượng, không đạt được kết quả mong đợi; ví dụ như trong các vấn đề liên quan đến ngân sách, phòng chống tham nhũng...Đây cũng là một thực tế có thể quan sát được trong hoạt động của Ủy ban ở cơ quan lập pháp một số nước như đã đề cập ở trên. Ở khía cạnh nhất định, đây chính là bảo đảm sự kết hợp giữa tính chuyên sâu và tính tổng thể, bao quát trong những vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của QH mà một Ủy ban dù chuyên trách cũng khó có thể thực hiện được một cách có hiệu quả.

Hoạt động phối hợp giữa HĐDT, các Ủy ban vừa là quy định pháp lý, vừa là nhu cầu thực tế đặt ra trong tổ chức và hoạt động của QH. Việc hợp tác tích cực giữa Hội đồng, Ủy ban trong hoạt động này một mặt, không làm tổn hại đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng, Ủy ban được giao chuyên trách về một hoạt động cụ thể, mà nó cho phép thành viên của từng cơ quan phát triển được những hiểu biết chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực chính sách có liên quan đến lĩnh vực của Hội đồng, Ủy ban mình, tránh những rủi ro tiềm ẩn trong trường hợp giao


những thẩm quyền quan trọng cho một cơ quan duy nhất đảm nhiệm. Để bảo đảm hiệu quả, khuôn khổ pháp lý về hoạt động phối hợp giữa Hội đồng, Ủy ban phải đầy đủ, rõ ràng. Mặt khác, cũng cần bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc hoạt động của Hội đồng, Ủy ban trong việc xác lập cơ sở pháp lý cũng như tổ chức thực hiện hoạt động phối hợp trong thực tế. Điều này nhằm tránh việc từng chủ thể Hội đồng, Ủy ban chỉ tập trung vào hoạt động chính của mình mà coi nhẹ hoạt động phối hợp; hoặc có phối hợp, nhưng lại không bảo đảm đầy đủ các nguyên tắc hoạt động của HĐDT, các Ủy ban.

2.3. YÊU CẦU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC, CÁC ỦY BAN

Như bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào khác, hoạt động của HĐDT, các Ủy ban phải hướng tới việc thực hiện tốt, có hiệu quả vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật quy định. Kết quả hoạt động của HĐDT, các Uỷ ban thể hiện ở mức độ thành công của các thiết chế này trong việc theo đuổi thực hiện mục đích tồn tại, hay mục đích được thành lập của HĐDT, các Uỷ ban, đó là các cơ quan này đóng góp được gì cho hoạt động của chung của QH, UBTVQH. Với ý nghĩa như vậy, có thể quan niệm yêu cầu đối với hoạt động của các HĐDT, các Ủy ban là hệ thống những tính chất, những dấu hiệu, chỉ số cần có đối với hoạt động của HĐDT, các Ủy ban, nhằm cụ thể hóa mức độ đáp ứng về mục tiêu hoạt động của các cơ quan này; là sự phản ánh quá trình, kết quả hoạt động, cho phép đưa ra nhận định về hoạt động của HĐDT, các Ủy ban. Việc xác định các yêu cầu đặt ra trong hoạt động của các cơ quan này giúp định hướng cho các hoạt động của HĐDT, các Ủy ban, là các “chỉ dấu” giúp các HĐDT, các Ủy ban tập trung vào những mục tiêu trọng tâm trong hoạt động. Yêu cầu đối với hoạt động của HĐDT, các Ủy ban cần phải được đặt trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay. Theo NCS, các yêu cầu cơ bản đặt ra trong hoạt động của HĐDT, các Ủy ban cụ thể như sau:

2.3.1. Bảo đảm hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước, của QH nói chung và của HĐDT, các Ủy ban nói riêng là một trong những yêu cầu quan trọng. Về chuẩn mực quốc tế, “thượng tôn pháp luật” cũng là một trong bốn yếu tố giá trị quan trọng của khái niệm Nhà nước pháp quyền theo quan niệm của Liên hợp quốc [143]. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, Hiến pháp là văn bản


có hiệu lực pháp lý tối cao, có tác dụng hạn chế quyền lực của các cơ quan tối cao của nhà nước, bảo đảm cho các cơ quan nhà nước tôn trọng pháp luật; và mọi cơ quan nhà nước phải đặt trong vòng kiềm tỏa của pháp luật với mục đích nhằm bảo vệ quyền con người trong một xã hội văn minh [105, tr.32]. Do đó, là các cơ quan của QH, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, yêu cầu bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong hoạt động của HĐDT, các Ủy ban thể hiện ở các khía cạnh: (i) Hoạt động của HĐDT, các Ủy ban phải tuân thủ đúng các nguyên tắc của Hiến pháp; (ii) Trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của HĐDT, các Uỷ ban được thực hiện, thể hiện như thế nào trong thực tiễn hoạt động.

Trong điều kiện thực tiễn của nước ta, việc bảo đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật thông qua vai trò thẩm tra của HĐDT, các Uỷ ban có ý nghĩa then chốt. Không thể phủ nhận một thực tế rằng, việc “tiền kiểm” của HĐDT, các Uỷ ban ở đây có tác dụng nhằm chủ động ngăn ngừa, loại trừ trước các khả năng vi hiến trong hoạt động xây dựng pháp luật ngay từ ban đầu, từ khâu xây dựng, thẩm tra dự thảo văn bản là lựa chọn ít gây hệ luỵ xấu cho toàn bộ hệ thống, cho đời sống kinh tế-xã hội của đất nước nếu so sánh với việc để sau khi văn bản đã được ban hành, có hiệu lực rồi lúc đó mới phát hiện ra và xử lý thông qua hoạt động giám sát văn bản. Do đó, trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở nước ta hiện nay và trong những năm tới, cần thống nhất nhận thức, tập trung mọi nguồn lực để hoạt động thẩm tra bảo đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật do HĐDT, các Uỷ ban hoạt động đạt chất lượng tốt, đi vào thực chất. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là đặt trong điều kiện hiện nay khi Hiến pháp năm 2013 (khoản 2 Điều 119) đã quy định rõ trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của các cơ quan nhà nước, trong đó có QH, các cơ quan của QH, thì cần thiết phải khẳng định rằng mọi hoạt động của HĐDT, các Ủy ban phải tuân thủ triệt để các quy định của Hiến pháp; bảo đảm hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp. Do vậy, đây cần được xác định là một trong những yêu cầu trọng tâm đối với hoạt động của HĐDT, các Ủy ban, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Một vấn đề khác cần lưu ý trong quá trình này, đó là tính ổn định của hệ thống. Liên quan đến nội dung này, mặc dù được trao thẩm quyền rất lớn trong việc bảo vệ Hiến pháp, Tòa án tối cao Hoa Kỳ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này đã cố gắng để “tránh xung đột với các ngành quyền lực khác”; và “Tòa án khi xét xử chỉ có quyền tuyên bố, đạo luật sẽ không được áp dụng trong trường hợp của vụ án, mà không tuyên bố hủy bỏ đạo luật” [10, tr.414-


415]. Đặt trong điều kiện của Việt Nam, trách nhiệm, sự cẩn trọng của HĐDT, các Ủy ban trong việc góp phần bảo đảm sự ổn định về mặt chính trị trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này còn là một vấn đề cần được coi trọng hơn.

Bên cạnh đó, trong Nhà nước pháp quyền XHCN, cũng đòi hỏi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong đó có hoạt động của HĐDT, các Ủy ban phải được thực hiện trên nền tảng quy định của pháp luật, tuân thủ nghiêm túc pháp luật. Bởi một vấn đề có tính nguyên tắc như PGS.TS Chu Hồng Thanh đã đề cập, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cũng không thể đứng trên Hiến pháp và pháp luật, hoạt động của QH phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật [69, tr.50-51], trong đó, các cơ quan của QH cũng không phải là ngoại lệ. Ở bình diện khác, yêu cầu này cũng đòi hỏi khuôn khổ pháp lý về hoạt động của HĐDT, các Ủy ban cũng luôn phải được nghiên cứu hoàn thiện, đầy đủ, rõ ràng, khoa học, thống nhất, phù hợp với thực tiễn.

2.3.2. Bảo đảm tính khách quan

Việc xa rời các quy luật khách quan, không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn là một trong những nguyên nhân gắn liền với sự thất bại của các thể chế nhà nước ở bất kỳ giai đoạn nào. Trong các quốc gia hiện nay, nơi cơ quan lập pháp có các quyền năng chủ yếu là: quyền lập pháp (bao gồm cả quyền xem xét và kiểm soát dự toán ngân sách quốc gia) và quyền giám sát hoạt động của các cơ quan hành pháp, và đây là các nhiệm vụ, quyền hạn rất to lớn, và khác với cơ quan đại diện ở địa phương, cơ quan lập pháp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đó vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc và điều này cũng tất yếu đòi hỏi phải bảo đảm tính khách quan trong các quyết định của mình. Điều này vừa thể hiện bản chất của cơ quan đại diện, đồng thời, bảo đảm tính bền vững và gia tăng khả năng thích nghi của cơ quan đại diện nói riêng và xét đến cùng cũng chính là tính bền vững và khả năng thích nghi, phát triển của thể chế nhà nước ở từng quốc gia cụ thể. Yếu tố này cũng đòi hỏi Hội đồng, Ủy ban - với vị trí là các cơ quan chuyên môn của QH cần bảo đảm tính khách quan trong các hoạt động của mình.

Chức năng lập pháp của QH, xét đến cùng cũng chính là chức năng của từng ĐBQH mà đặc biệt là các thành viên Hội đồng, Ủy ban - cơ quan được coi là có chức năng tư vấn, tham mưu cho QH. Với tư cách là một tập thể, Hội đồng, Ủy ban có nhiệm vụ giúp cơ quan lập pháp tìm ra và lý giải một cách chuyên nghiệp, rõ ràng các vấn đề liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường...trong đó, có nhiều vấn đề động chạm trực tiếp đến


quyền lợi của toàn xã hội cũng như từng người dân. Trong lĩnh vực lập pháp, yêu cầu về tính khách quan đòi hỏi Hội đồng, Ủy ban khi thực hiện hoạt động thẩm tra, chỉnh lý dự thảo văn bản QPPL phải “cần quan tâm để pháp luật được nhận thức đúng với ý nghĩa của sự vật, chứ đừng trái với bản chất sự vật” [52, tr.212]. Điều này cũng đòi hỏi tập thể và từng thành viên Hội đồng, Ủy ban phải tôn trọng thực tế khách quan và cần coi đây là một yêu cầu quan trọng đối với nhà lập pháp, đúng như C.Mác từng nhấn mạnh: “Nhà lập pháp phải coi mình như một nhà khoa học tự nhiên, ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra chúng mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức. Chúng ta sẽ phải chê trách nhà làm luật là vô cùng tùy tiện, nếu như ông ta thay thế bản chất của sự vật, hiện tượng bằng những điều bịa đặt của mình” [5, tr.232].

Như vậy, có thể hiểu tính khách quan đòi hỏi Hội đồng, Ủy ban mà cụ thể là từng thành viên phải có năng lực để thực sự nhận biết và không thể tán thành với những dự án, dự thảo, hay những nội dung cụ thể của các dự án, dự thảo có chứa đựng trong đó những cách điều chỉnh thể hiện những khuynh hướng, những cách thức tiếp cận sai lầm, duy ý chí, không phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.

Tính khách quan đòi hỏi Hội đồng, Ủy ban không chỉ phải thực sự là “tai, mắt, não”, mà còn là những chủ thể tham gia trực tiếp hành động, giúp QH nhận biết và từ đó có thể thực hiện việc ngăn ngừa, loại trừ những yếu tố mang tính chất cục bộ, lợi ích nhóm...có thể gây tác động tiêu cực đến việc bảo đảm lợi ích chung trong hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát. Đây là vấn đề đáng lưu ý, bởi như trong Đề án “Thực trạng và giải pháp phòng, chống tiêu cực trong các hoạt động tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý” tại Hội thảo “Thực trạng, giải pháp phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp” do Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương tổ chức ngày 28/01/2015, đã có nhận định: “mỗi lĩnh vực do Bộ Tư pháp quản lý đều có hoặc có thể tiềm ẩn tiêu cực, như trong công tác xây dựng pháp luật, có một số biểu hiện lợi ích nhóm, lobby chính sách, lồng ghép lợi ích...” [141]. Trải nghiệm của một vị đại biểu QH khóa XIII đương nhiệm cũng cho thấy, trong nhiều phiên họp của QH Việt Nam, không ít đại biểu QH đã đề cập và lo ngại về tình trạng nhóm lợi ích trong hoạt động xây dựng luật cũng như trong cả những lĩnh vực khác, và ngăn ngừa lợi ích nhóm là vấn đề khó, nhưng không thể không làm [145]. Năm 2015, theo Tuyên bố Hà Nội của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU132), là đại diện của người dân, việc quan tâm bảo vệ lợi ích công và theo đuổi sự thịnh vượng chung,

Xem tất cả 240 trang.

Ngày đăng: 23/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí