Thanh Tra, Kiểm Tra Hoạt Động Du Lịch Và Xử Lý Vi Phạm Trong Hoạt Động Du Lịch Trên Địa Bàn


Về hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội: Hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, đường thủy, công viên, mạng lưới thương nghiệp, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống điện.

Về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch về ăn, ở, đi lại,... Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác các tiềm năng du lịch, tạo ra các sản phẩm dịch vụ và hàng hoá cung cấp, làm thỏa mãn nhu cầu của du khách, bao gồm: Hệ thống nhà hàng, khách sạn, các khu vui chơi giải trí, các phương tiện vận chuyển, các công trình kiến trúc bổ trợ. Có thể thấy phát triển kết cấu hạ tầng du lịch sẽ bao gồm phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch để phục vụ nhu cầu du khách và sự phát triển HĐDL địa phương.

1.2.5. Thanh tra, kiểm tra hoạt động du lịch và xử lý vi phạm trong hoạt động du lịch trên địa bàn

Sự phát triển của các HĐDL sẽ kéo theo những ảnh hưởng đến tới sự phát triển của xã hội như tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, sự xuống cấp của kết cấu hạ tầng của HĐDL... Chính vì vậy, cơ quan QLNN cần thường xuyên tiến hành thanh tra, kiểm tra các cá nhân, tổ chức tham gia HĐDL tránh những trường hợp vi phạm pháp luật về du lịch. Đồng thời, cũng cần có những biện pháp chế tài phù hợp với những trường hợp vi phạm pháp luật về HĐDL, đảm bảo HĐDL phát triển bền vững, đúng định hướng đề ra.

1.2.6. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý du lịch trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh

Hoạt động du lịch dựa vào hai yếu tố tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Nếu một trong hai trụ cột này bị mất đi thì hoạt động du lịch sẽ phải đối mặt với nguy cơ suy thoái trầm trọng. Chính vì vậy, trong quá trình quản lý hoạt động du lịch thì mục tiêu phát triển du lịch là vô cùng quan trọng. Để đạt được các mục tiêu này, trong quá trình quản lý hoạt động du lịch phải đảm bảo được các tiêu chí như:

Thứ nhất, các tiêu chí đánh giá được mức độ tăng trưởng kinh tế bền vững.

Các tiêu chí này bao gồm:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Tốc độ tăng trưởng doanh thu của hoạt động du lịch, tăng trưởng giá trị tăng thêm của hoạt động du lịch. Thông thường các tiêu chí này chính là những mục tiêu quản lý được đề ra trước đó trong các kế hoạch, chiến lược phát triển hoạt động du lịch của từng địa phương.

Đóng góp của giá trị tăng thêm ngành du lịch vào GRDP của địa phương ngày càng tăng cũng là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lý du lịch.

Hoàn thiện quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 5

Sự phù hợp với lợi thế địa phương, tính đa dạng, bền vững của sản phẩm du lịch: Mức độ phù hợp để đánh giá sự phát triển bền vững của sản phẩm du lịch là phải phù hợp với chiến lược phát triển sản phẩm du lịch của địa phương đó, bởi chiến lược của mỗi địa phương thường được xây dựng trên cơ sở đã cân nhắc, tính toán khoa học các yếu tố liên quan, hướng tới khai thác, phát huy tốt nhất đặc thù tiềm năng, lợi thế tài nguyên vốn có của từng địa phương.

Lượng vốn và cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho phát triển du lịch: Được huy động và cơ cấu phù hợp với phân kỳ theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của địa phương.

Số lượng, chất lượng nguồn lao động phụ vụ hoạt động du lịch: Các chỉ số về phát triển nguồn nhân lực du lịch, bao gồm cả số lượng và chất lượng, đã được tính toán phù hợp và cân đối với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững khác của địa phương.

Mức độ ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường và công nghệ thông tin: Mức độ phải tăng dần liên tục. Ví dụ, ở nước ta, trong chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2020 - 2025 các định mục tiêu có bình quân trên 60% cơ sở kinh doanh du lịch sử dụng Internet phục vụ hoạt động quảng bá, giới thiệu hình ảnh và có sự chủ động áp dụng công nghệ thân thiện với môi trường trong các hoạt động liên quan đến đầu tư, kinh doanh du lịch. Tỷ lệ này phải tăng lên trong cả giai đoạn và từng năm theo tỷ lệ tương ướng.

Tăng trưởng lượng khách du lịch: Giới hạn cần đạt của chỉ số này được xác định tương ứng với giới hạn của chỉ số về tăng trưởng giá trị tăng thêm.

Chi tiêu bình quân của khách du lịch: Tăng dần liên tục không dưới 5 năm; không thấp hơn trung bình chỉ số này của du lịch cả nước.


Mức độ hài lòng của du khách: là tiêu chí đánh giá vô cùng quan trọng.

Thứ hai, các chí đánh giá tăng trưởng kinh tế bền vững thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội và gắn liền với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa bản địa. Hệ tiêu chí này thể hiện ở những nội dung cụ thể sau:

Tỷ lệ người dân được lấy ý kiến về quy hoạch, chủ trương đầu tư dự án du lịch trước khi triển khai: 100% chủ hộ trong vùng dự án.

Mức độ tạo việc làm cho cộng đồng địa phương từ hoạt động du lịch phải cao hơn tỷ lệ tạo việc làm mới bình thường trước khi có dự án du lịch trên địa bàn;

Đóng góp cho xóa đói giảm nghèo và tạo cơ hội nâng cao thu nhập, hưởng lợi cho cộng đồng bản địa từ hoạt động du lịch.

Đóng góp của du lịch cho bảo vệ tài nguyên du lịch nhân văn;

Mức độ hài lòng của cộng đồng địa phương đối với hoạt động hoạt động du lịch.

Thứ ba, tiêu chí đánh giá tăng trưởng kinh tế bền vững gắn với bảo vệ tài nguyên du lịch tự nhiên và môi trường sinh thái. Tiêu chí này bao gồm:

Tỷ lệ các khu, điểm tài nguyên được được quy hoạch;

Tỷ lệ khu, điểm tài nguyên du lịch đang khai thác được đầu tư tôn tạo và bảo vệ đáp ứng yêu cầu chống suy giảm tài nguyên, bảo vệ môi trường luôn luôn tăng đều theo tỷ lệ nhất định.

Chất lượng môi trường (nước, không khí, rác thải, âm thanh, ánh sáng...) tại các khu, điểm du lịch: Không vượt ngưỡng theo các quy chuẩn, tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể về môi trường do cơ quan chức năng quy định cho từng thời kỳ.

Ý thức trách nhiệm của du khách với tài nguyên du lịch và môi trường: Tuân thủ nội quy, quy chế bảo vệ tài nguyên, môi trường tại nơi du lịch; tỷ lệ bị xử lý vi phạm ở mức quy định so với tổng số du khách; không có vi phạm dẫn tới hậu quả nghiêm trọng.

Ý thức trách nhiệm của cộng đồng dân cư bản địa với tài nguyên du lịch và môi trường: Tuân thủ quy định về bảo vệ tài nguyên, môi trường của địa phương và tuân thủ cam kết bảo vệ tài nguyên, môi trường. Tỷ lệ vi phạm bị xử lý hàng năm theo quy định so với tổng số người dân của cộng đồng; không có vi phạm dẫn tới hậu quả nghiêm trọng.


Trách nhiệm của cơ sở kinh doanh du lịch với tài nguyên du lịch và môi trường: Tuân thủ nội quy, quy chế bảo vệ tài nguyên, môi trường tại nơi du lịch; tỷ lệ bị xử lý vi phạm hàng năm theo quy định so với tổng số cơ sở; không có vi phạm đem lại hậu quả nghiêm trọng.

1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh

1.3.1. Yếu tố khách quan


Có một số yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quản lý HĐDL trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh như sau:

Một là, đường lối phát triển du lịch có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với mỗi quốc gia, bởi nó chính là chìa khóa đem lại sự thành công cho ngành công nghiệp không khói này. Đường lối phát triển du lịch được biểu hiện cụ thể qua các chính sách, chiến lược xác định phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch về tổng thể dài hạn như: chiến lược đầu tư, xúc tiến, quảng bá du lịch, chiến lược về sản phẩm, nâng cao chất lượng các dịch vụ, giữ gìn tôn tạo và phát triển tài nguyên môi trường đi kèm với đó là những giải pháp cơ bản nhất để nhằm thực hiện chiến lược. Nó góp phần hỗ trợ và giúp các nhà quản lý chủ động trong kế hoạch đầu tư phát triển ngành du lịch, tạo cơ sở xây dựng các quyết sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế. Như vậy, có thể nói việc xây dựng được chiến lược phát triển, đưa ra được những bước đi đúng hướng sẽ tạo cho ngành du lịch có những bước đột phá mới trong tiến trình hoạt động, ngược lại, nếu đưa ra những đường hướng không phù hợp với quy luật và thực tế phát triển nói chung sẽ trở thành nguyên nhân kìm hãm sự phát triển du lịch.

Hai là, cơ chế, chính sách QLNN về du lịch của chính quyền thành phố trực thuộc tỉnh. Cơ quan QLNN về du lịch của thành phố trực thuộc tỉnh thực hiện quản lý theo phân cấp, dưới sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý cấp trung ương, chịu sự giám sát của nhân dân và kiểm nghiệm của thị trường. Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ở Thành phố thực hiện quản lý HĐDL bằng hệ thống các công cụ quản lý kinh tế như chiến lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch phát triển du lịch, các


quy định của pháp luật trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp. Chính quyền địa phương căn cứ vào thẩm quyền của mình sẽ tổ chức thực hiện pháp luật và chủ trương, chính sách của tỉnh trên địa bàn Thành phố. Đồng thời, xây dựng và thực thi các chính sách phát triển của Thành phố nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho HĐDL và các doanh nghiệp du lịch. Do đó, chính quyền địa phương có các chính sách, cơ chế phù hợp với yêu cầu thực tiễn của địa phương và pháp luật, chủ trương, chính sách của trung ương, của tỉnh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý HĐDL về du lịch. Việc quản lý HĐDL của địa phương tốt sẽ tháo gỡ được nhiều khó khăn vướng mắc, giải phóng các rào cản để huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển du lịch, đảm bảo sử dụng nguồn lực đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ được môi trường sinh thái; khai thác được nguồn lực du lịch phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các mục tiêu KT- XH, quốc phòng, an ninh. Chính quyền địa phương thiếu quan tâm, buông lỏng hoạt quản lý HĐDL, thiếu kiểm tra, kiểm soát việc thực thi chủ trương, chính sách về HĐDL của các bên tham gia sẽ làm phát sinh các hiện tượng vi phạm, tác động tiêu cực đến phát triển HĐDL. Vì vậy, các cấp chính quyền của Thành phố trực thuộc tỉnh phải có trách nhiệm thực hiện đúng chức năng QLNN đối với du lịch, tạo sự ảnh hưởng tích cực trong hoạt động QLNN của mình.

Ba là, điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phục vụ phát triển HĐDL. Là một hoạt động đặc trưng, du lịch chỉ phát triển được trong những điều kiện mà nó cho phép. Trong những điều kiện này có những điều kiện mang tính đặc tính chung thuộc về các mặt của đời sống xã hội, bên cạnh đó do đặc điểm vị trí địa lý từng vùng mà nó tạo nên những tiềm năng du lịch khác nhau. Điều kiện tự nhiện là toàn bộ các điều kiện môi trường tự nhiên như: địa hình đa dạng; khí hậu ôn hòa; nguồn động, thực vật phong phú; vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn…Ngoài ra, những nét riêng có trong phong tục, tập quán, quan niệm và phương thức trong đời sống dân cư ở mỗi dân tộc, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi quốc gia là những tài nguyên du lịch xã hội kích thích nhu cầu tìm hiểu, giao lưu giữa các dân tộc, các quốc gia, có tác dụng lôi cuốn du khách đến tham quan,


tìm hiểu nền văn hóa của các quốc gia khác, là một trong những nhân tố quan trọng để thu hút khách quốc tế.

Đây là cơ sở cho quy hoạch phát triển du lịch và các biện pháp chính sách để phát triển sản phẩm du lịch, khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch. Những yếu tố về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi đã giúp cho việc hoạch định phát triển du lịch và đưa ra thực thi các quyết định quản lý về HĐDL.

Bốn là, tình hình phát triển kinh tế của địa phương là nhân tố quan trọng tác động tới sự phát triển của du lịch và quản lý du lịch. Khi kinh tế phát triển ổn định với môi trường chính sách thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp và du khách thuận lợi tham gia vào các HĐDL, điều đó cũng thuận lợi cho công tác quản lý. Trong thực tế, sự ổn định chính trị và xã hội được một số nghiên cứu coi như là một đặc điểm của sản phẩm du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến cầu của nhiều phân đoạn thị trường du lịch. Khi các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của một điểm du lịch biến động nhiều hơn khả năng dự trữ nguồn tài nguyên thì chúng có thể là nguyên nhân làm vai trò và sự đóng góp của ngành du lịch trong GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) không ổn định. Bên cạnh đó, điều kiện về kinh tế sẽ có tác động đến QLNN về du lịch của Thành phố thuộc tỉnh. Khi Thành phố thuộc tỉnh có một nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho việc khai thác hiệu quả HĐDL. Với nền kinh tế phát triển, sẽ đảm bảo cung cấp hàng hóa thiết yếu cho HĐDL và nguồn vốn để duy trì, phát triển HĐDL cũng như thiết lập các mối quan hệ kinh tế với bạn hàng trong việc cung ứng hàng hóa và dịch vụ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Từ đó tạo điều kiện tăng thu ngoại tệ cho các tổ chức du lịch và cho địa phương. Do đó, với điều kiện kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan QLNN về du lịch của Thành phố xây dựng chính sách phát triển HĐDL.

Đặc biệt, hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội, điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và tài nguyên du lịch, danh lam thắng cảnh, công trình, di sản văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, phong tục tập quán,… là yếu tố giúp cho việc QLNN về du lịch hiệu quả. Đây là cơ sở để khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu của du khách, thu hút đa dạng du khách và giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch. Cơ sở


vật chất kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp cũng như chất lượng dịch vụ du lịch cung cấp cho khách hàng. Có hai loại cơ sở vật chất kỹ thuật đó là: cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và cơ sở hạ tầng xã hội. Các thành tựu kinh tế, chính trị cũng có sức thu hút đối với nhiều khách du lịch. Các cuộc triển lãm thành tựu kinh tế, kỹ thuật là một ví dụ cho việc thu hút du khách. Các thương nhân tìm đến để thiết lập quan hệ, quảng bá sản phẩm. Khách tham quan tìm đến để thỏa mãn những mối quan tâm, hiếu kỳ. Các nhà nghiên cứu tìm đến để quan sát, xem xét và học hỏi,….

Năm là, chất lượng nguồn nhân lực. Du lịch là ngành sử dụng nhiều nhân lực, vì vậy, nguồn nhân lực là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến HĐDL và QLNN về du lịch. Người lao động sẽ trực tiếp thực hiện các HĐDL, khai thác các nguồn lực phục vụ du lịch, cung cấp hàng hóa, sản phẩm phục vụ du khách. Thành phố xây dựng được nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là yếu tố quan trọng để tạo ra nhiều sản phẩm du lịch có chất lượng cao, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của điểm đến du lịch nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng.

Sáu là, nguồn vốn và quy mô, chất lượng hoạt động của các cơ sở cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch. Yếu tố này cũng ảnh hưởng lớn đến QLNN về du lịch của thành phố trực thuộc tỉnh. HĐDL là một hoạt động kinh tế tổng hợp nên rất cần vốn để đầu tư phát triển như đầu tư trang bị cơ sở vật chất - hạ tầng, cơ sở lưu trú du lịch. HĐDL địa phương có cạnh tranh thu hút được nhiều du khách hay không một phần lớn là nhờ vào mức độ hiện đại của cơ sở vật chất - hạ tầng và cơ sở lưu trú du lịch và điều này phụ thuộc vào quy mô, hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư. Số lượng, quy mô và chất lượng hoạt động của các cơ sở cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển HĐDL. Do đó, quản lý HĐDL cần đảm bảo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia và hoạt động kinh doanh du lịch của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp du lịch cung ứng ra thị trường những sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của du khách; đồng thời, cùng tồn tại và phát triển sẽ tạo ra sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng phục vụ; đầu tư mở rộng quy mô để có điều kiện đầu tư chiều sâu, ứng dụng khoa học - công nghệ, mở rộng liên doanh liên kết, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển đồng bộ các loại hình du lịch để hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển


1.3.2. Yếu tố chủ quan


Bên cạnh các yếu khách quan nêu trên thì cũng có một số yếu tố chủ quan đó là:

Thứ nhất, cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN về du lịch có ảnh hưởng lớn đến sự quản lý HĐDL và thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Tổ chức bộ máy QLNN về du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển thì sẽ thúc đẩy HĐDL phát triển nhanh và mạnh. Ngược lại, sẽ làm cho HĐDL chậm phát triển, thậm chí không phát triển và sử dụng lãng phí tài nguyên du lịch. Nếu xây dựng được tổ chức có năng lực sẽ giúp cho QLNN về du lịch thuận lợi và hiệu quả.

Thứ hai, trình độ của cán bộ QLNN về du lịch của thành phố trực thuộc tỉnh. Đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan QLNN về du lịch, tham mưu xây dựng chính sách phát triển HĐDL, ban hành các văn bản, quy định và tổ chức, điều hành, quản lý các HĐDL của địa phương. Do đó, họ sẽ là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng, tạo lập môi trường cho HĐDL như: Lập kế hoạch quản lý và xây dựng cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực; phát triển sản phẩm, công nghệ và phát triển các hệ thống; các ngành liên quan và mua sắm.

Trong bối cảnh HNQT và phát triển hiện nay, QLNN về du lịch tại các thành phố trực thuộc tỉnh đòi hỏi ngày càng được nâng cao để đáp ứng nhu cầu phát triển. Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và hiệu lực của QLNN về du lịch. Nếu năng lực quản lý giỏi, trình độ chuyên môn cao và có phẩm chất đạo đức thì việc xây dựng chính sách, hoạch định, quy hoạch phát triển và việc tổ chức, điều hành HĐDL của địa phương sẽ sát thực tế, khả thi, nhanh chóng và hiệu quả… Ngược lại, sẽ làm cho việc QLNN về du lịch trì trệ, kém hiệu quả, làm cho HĐDL địa phương chậm phát triển.

Thứ ba, cơ chế phối hợp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý HĐDL của các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh. Như đã phân tích ở trên, HĐDL là hoạt động liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Các cơ quan QLNN về du lịch là cơ quản chủ trì hoạt động quản lý chuyên ngành những cũng cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan trong việc thực hiện quản lý HĐDL. Do vậy, trong quá trình quản lý nếu không có cơ chế phố

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 03/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí