Cơ Sở Khoa Học Quản Lý Hoạt Động Du Lịch Trên Địa Bàn Thành Phố Trực Thuộc Tỉnh


+ Thứ hai, phân tích thực trạng quản lý HĐDL trên địa bàn thành phố Hạ Long trong giai đoạn từ năm 2015-2020, từ đó đánh giá các kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.

+ Thứ ba, đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện quản lý HĐDL trên địa bàn thành phố Hạ Long, nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch trên địa bàn Thành phố.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động quản lý du lịch trên địa bàn thành phố Hạ Long của chính quyền thành phố Hạ Long.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi về không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

+ Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong thời gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2020.

+ Phạm vi nội dung: đề tài tập trung làm rõ những nội dung quản lý HĐDL của chính quyền thành phố Hạ Long trong đó chú trọng việc xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển HĐDL; xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế, chính sách về HĐDL; tổ chức HĐDL (lữ hành, vận chuyển khách du lịch, lưu trú, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí); xúc tiến – hợp tác phát triển du lịch; phát triển kết cấu hạ tầng du lịch; khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở kinh doanh du lịch; và kiểm tra, kiểm soát HĐDL trên địa bàn thành phố Hạ Long.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Cơ sở lý luận của đề tài dựa trên quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta về phát triển du lịch, thể hiện trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc; các văn bản QPPL liên quan đế hoạt động QLNN về du lịch như Luật Du lịch, Luật Di sản văn hóa, Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

Hoàn thiện quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 3


Để thực hiện các mực đích nghiên cứu đề ra, đề tài sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu mô tả như sau:

- Phương pháp phân tích và xử lý thông tin: nghiên cứu các tài liệu lý thuyết, các văn bản hiện hành liên quan đến quản lý HĐDL. Phương pháp này được sử dụng để phân tích các số liệu thống kê và tình hình thực tiễn để đánh giá hạn chế của công tác quản lý HĐDL của các cơ quan quản lý trên địa bàn thành phố Hạ Long và xác định những vấn đề cần giải quyết.

- Phương pháp tổng hợp: nghiên cứu và liên kết các mặt, các bộ phận, các thông tin liên quan tác động tới công tác quản lý HĐDL của các cơ quan quản lý trên địa bàn thành phố Hạ Long trong thời gian qua.

- Phương pháp hệ thống hóa: sắp xếp các tri thức của đối tượng nghiên cứu trong đề tài công tác quản lý HĐDL của các cơ quan quản lý trên địa bàn thành phố Hạ Long đã được phân tích và tổng hợp theo một cấu trúc nhất định nhằm tạo thành một hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý HĐDL, giúp cho sự hiểu biết quản lý HĐDL của các cơ quan quản lý được đầy đủ và chuyên sâu.

- Phương pháp thống kê: sử dụng các số liệu thống kê để phân tích và làm rõ các xu hướng vận động của những vấn đề có liên quan để lập luận nhằm minh chứng cho những nhận xét và kết luận của tác giả.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của đề tài được kết cấu bao gồm 3 chương, cụ thể:

Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn Thành phố trực thuộc tỉnh

Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn Thành phố Hạ Long, Tỉnh Quảng Ninh.


Chương 1


CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH‌

1.1. Khái niệm và vai trò quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn Thành phố trực thuộc tỉnh

1.1.1. Các khái niệm có liên quan


* Du lịch

Từ giữa thế kỷ 19, du lịch bắt đầu phát triển mạnh và ngày nay đã trở thành một hiện tượng KT-XH phổ biến. Tuy nhiên cho đến này vẫn có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Cụ thể:

Các học giả Trung Quốc đã đưa ra định nghĩa về du lịch: “Du lịch là hiện tượng kinh tế - xã hội nảy sinh trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, là sự tổng hòa các quan hệ và hiện tượng do việc lữ hành để thỏa mãn mục đích chủ yếu là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giới thiệu văn hóa nhưng lưu động chứ không định cư mà tạm thời lưu trú của mọi người dẫn tới” (Lê Thu Hương, 2011). Với định nghĩa này người Trung Quốc nhấn mạnh đến mục đích của du lịch là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giới thiệu văn hóa, đồng thời hoạt động này là lưu động, diễn ra ngắn hạn.

Theo Liên hiệp quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức (InternationalUnion of Official Travel Oragnization: IUOTO): “Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống…”; Theo Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourism Organization): “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành tạm trú với mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm ở bên ngoài môi trường sống định cư nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền” (Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa, 2008).


Với cách hiểu về khái niệm du lịch của IUOTO và WTO thì đều cho rằng du lịch không phải là hoạt động để làm ăn hoặc làm một việc để kiếm tiền mà đây là hoạt động với mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn ngoài nơi thường trú của mình.

Tại Việt Nam, khái niệm du lịch đã được luật hóa, theo Khoản 1 Điều 3, Luật Du lịch của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam năm 2017 thì du lịch được hiểu: “Là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác” (Luật Du lịch Việt Nam số 9/2017/QH14, 2017)

Như vậy, có khá nhiều khái niệm “Du lịch” nhưng tổng hợp lại ta thấy du lịch hàm chứa các yếu tố cơ bản sau:

- Du lịch là một hiện tượng KT-XH.

- Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của các cá nhân hoặc tập thể nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của họ.

- Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng nhằm phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu khác của cá nhân hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ.

- Các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời của cá nhân hoặc tập thể đó đều đồng thời có một số mục đích nhất định, trong đó có mục đích hoà bình.

Trên cơ sở tổng hợp những lý luận trên thế giới và Việt Nam về khái niệm du lịch, đề tài đi đến thống nhất cách hiểu về khái niệm du lịch như sau:

“Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng về nhu cầu đi lại, lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, tham quan và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích về kinh tế, chính trị - xã hội thiết thực cho quốc gia và toàn xã hội”.

* Hoạt động du lịch


Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, bao gồm các hoạt động khá đa dạng từ dịch vụ phòng nghỉ, ăn uống, mua bán đồ lưu niệm và hàng hóa,…các dịch vụ này được gọi là HĐDL và nó có liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau. Theo quy định tại Điều 3 của Luật Du lịch 2017: "HĐDL là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan đến du lịch” (Luật Du lịch Việt Nam số 9/2017/QH14, 2017).

Từ khái niệm trên, có thể hiểu: “HĐDL là tổng hợp các hoạt động tổ chức, kỹ thuật và kinh tế phục vụ cuộc hành trình và lưu trú của con người ở bên ngoài nơi cư trú với nhiều mục đích cá nhân, hoặc do nhu cầu công việc, chuyên môn, tìm kiếm việc làm, thực hiện thăm viếng thường xuyên, thực hiện sự phát triển cá nhân về phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa và tinh thần, nghỉ ngơi, tiêu khiển, giải trí cùng với việc đẩy mạnh sự hiểu biết và sự hợp tác giữa mọi người”.

Như vậy, HĐDL là một hoạt động đặc thù, có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau như: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, chính quyền địa phương nơi đón du khách và dân cư sở tại. HĐDL có mối quan hệ kết hợp và tương tác giữa các đối tượng trên. Đối với du khách là cuộc hành trình và lưu trú ở một nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần. Đối với nhà cung ứng dịch vụ du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện sản xuất dịch vụphục vụ du khách để đạt lợi nhuận. Đối với chính quyền địa phương đó là quản lý, tổ chức các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, kỹ thuật để phục vụ du khách; tổ chức các hoạt động dịch vụ phục vụ việc lưu trú, hành trình du lịch của du khách; tổ chức tiêu thụ sản phẩm địa phương, nâng cao mức sống dân cư; bảo vệ môi trường tự nhiên, xã hội. Đối với dân cư là tham gia HĐDL địa phương nhằm tăng thêm lợi ích kinh tế, đồng thời tham gia giám sát, bảo đảm tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực và rủi ro của du lịch đối với môi trường, truyền thống văn hóa và điều kiện sống của dân cư địa phương.

* Quản lý hoạt động du lịch

Quản lý HĐDL là hoạt động QLNN chuyên ngành về lĩnh vực du lịch, do vậy trước khi đi tìm hiểu khái niệm này, chúng ta cần có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ QLNN. QLNN là một khái niệm được sử dụng khá phố biến ở nước ta


và được sử dụng ở nhiều ngành nghề khác nhau. Khái niệm này được hiểu thống nhất như sau:

QLNN là thuật ngữ chỉ hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước (Học viện Hành Chính Quốc gia, 2009)

Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động QLNN cũng được chuyên môn hóa, đây chính là cơ sở khách quan của việc phân chia hoạt động QLNN thành các quản lý chuyên ngành khác nhau, trong đó có hoạt động/ lĩnh vực du lịch. Như vậy, QLNN đối với HĐDL là là sự tác động có tổ chức, mang tính quyền lực nhà nước của các cơ quan QLNN lên các quá trình và hành vi trong HĐDL nhằm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia HĐDL theo đúng định hướng của cơ quan QLNN. QLNN về HĐDL là hoạt động quản lý vĩ mô về HĐDL, việc QLNN về HĐDL sẽ được thực hiện thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cácchủ thể khác nhau hoạt động thuận lợi trong lĩnh vực này. Do đó, có thể QLNN về HĐDL như sau:

QLNN về HĐDL là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực, pháp luật nhà nước đối với các quá trình, các HĐDL của con người để duy trì và phát triển ngày càng cao các HĐDL trong nước và du lịch quốc tế nhằm đạt được các hiệu quả KT-XH do nhà nước đặt ra”.

1.1.2. Đặc điểm quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh


Quản lý HĐDL trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh có những đặc điểm cơ bản như sau:

Một là, về đối tượng quản lý: Từ sự phân tích khái niệm về HĐDL nêu trên có thể thấy được đối tượng quản lý HĐDL bao gồm:

(i). Hoạt động lữ hành là việc (do cơ sở hoặc doanh nghiệp lữ hành) xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch;


(ii). Hoạt động vận chuyển khách du lịch là hoạt động cung cấp dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch theo tuyến du lịch, theo chương trình du lịch tại các khu, điểm, đô thị du lịch được gọi là hoạt động kinh doanh vận chuyển khách du lịch;

Việc vận chuyển khách du lịch có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như đường bộ, đường thủy, đường sắt, hàng không, đáp ứng như cầu di chuyển của khách du lịch.

(iii). Hoạt động lưu trú, là một trong những nhu cầu cơ bản của khách du lịch. Lưu trú giúp cho khách du lịch có địa điểm để nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe để tiếp tục du lịch. Hoạt động lưu trú do các cơ sở lưu trú như nhà nghỉ, khách sạn, homestay … thực hiện để cung cấp các dịch vụ cho thuê buồng, giường và các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch;

(iv). Dịch vụ ăn uống, là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngành du lịch. Tham gia cung ứng các dịch vụ ăn uống trong du lịch có các loại hình như nhà hàng, quán bar, quán cà phê;

(v). Hoạt động vui chơi giải trí cũng là một trong những nhu cầu của khách khi đi du lịch. Hoạt động vui chơi giải trí trong du lịch nhằm mục đích để khách du lịch có điều kiện hồi phục năng lượng, nghỉ ngơi sau ngày du lịch;

(vi). Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch. Hoạt động này được coi là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển du lịch của ngành và mỗi địa phương;

(vii). Hợp tác quốc tế góp phần làm cho thế giới hiểu thêm về đất nước, con người của địa phương nơi khách đến du lịch. Trên cơ sở các hiệp ước quốc tế, các chương trình, dự án hợp tác quốc tế về du lịch mà Nhà nước hoặc từng địa phương ký kết sẽ tạo điều kiện cho ngành du lịch ngày càng thu hút được nhiều kênh đầu tư từ bên ngoài, thúc đẩy ngành du lịch trong nước phát triển;

(viii). Hệ thống cơ sở hạ tầng- kỹ thuật phục vụ HĐDL là các hoạt động liên quan tới xây dựng, cải tạo, phát triển, khai thác và sử dụng hệ thống hạ tầng du lịch.

Như vậy, có thể thấy được HĐDL là một hoạt động phức tạp, gắn với sự hiện diện của du khách mà phần lớn đến từ địa phương khác, nước khác. Bên cạnh đó,


HĐDL mang tính đa dạng và có yếu tố quốc tế. Đây còn là hoạt động mang tính liên ngành, liên vùng, mang tính tổng hợp có sự tham gia của các ngành khác nhau. Do đó, quản lý HĐDL có sự phối hợp giữa các ngành trên địa bàn và giữa thành phố với các vùng khác. Bên cạnh đó, HĐDL trên địa bàn thành phố còn mang đặc điểm gắn với yếu tố đô thị. Chẳng hạn, HĐDL trên địa bàn Thành phố Hạ Long với các tài nguyên du lịch gắn liền với Vịnh Hạ Long với yếu tố đô thị trung tâm vùng, gắn với điều kiện tự nhiên, cảnh quan vùng biển sẽ phát triển mạnh về sản phẩm du lịch mang tính đặc trưng chỉ có Hạ Long mới có.

Hai là, về cấp quản lý: đặc thù của cấp thành phố trực thuộc tỉnh như Hạ Long là cấp thừa hành, có phân quyền, vừa thực hiện pháp luật, chính sách của trung ương, vừa ban hành chính sách theo thẩm quyền. Cấp trung ương sẽ ban hành luật và các chính sách thống nhất quản lý HĐDL trên cả nước, từ đó, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh sẽ cụ thể hóa và triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách của trung ương để quản lý và phát triển HĐDL phù hợp với thực tế địa phương.

Ba là, về phương pháp quản lý: Phương pháp quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu mà chủ thể đã xác định vì thế quản lý HĐDL cũng sử dụng các phương pháp quản lý cơ bản như:

Phương pháp hành chính, là phương pháp đặc thù của hoạt động QLNN, phương pháp này được thực hiện trong QLNN đối với các HĐDL thông qua các mệnh lệnh hành chính được ban hành bởi các chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý và các thủ thể thực hiện các hành vi trong lĩnh vực du lịch.

Phương pháp tuyên truyền - giáo dục, là phương pháp tác động tới nhận thức và tình cảm của các chủ thể thực hiện hành vi để từ đó lôi cuốn các chủ thể thực hiện các hành động thuộc đối tượng quản lý chấp hành và thực hiện những gì mà chủ thể quản lý mong muốn. Trong quản lý HĐDL, người sử dụng dịch vụ du lịch, kinh doanh du lịch là một bộ phận cấu thành của hệ thống các HĐDL nên việc sử dụng phương pháp này để tác động lên ý thức chấp hành pháp luật quản lý HĐDL là hết sức cần thiết.

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 03/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí