Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Pháp Luật Về Mang Thai Hộ Ở Việt Nam

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam

2.1.1.1. Pháp luật Việt Nam trước khi có quy định về mang thai hộ

Tại Việt Nam, mang thai hộ từ lâu đã tồn tại trong thực tiễn cuộc sống. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn là vì các lí do khác nhau mà có nhiều cặp vợ chồng vô sinh do người vợ không thể thụ thai hoặc sinh con ngay cả khi đã thử qua các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không quy định về cho phép mang thai hộ, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP nghiêm cấm mang thai hộ xong hoạt động này vẫn diễn ra lén lút dưới dạng “chửa thuê”, “đẻ thuê” bởi nhu cầu có con của các cặp vợ chồng hiếm muộn. Bằng nhiều hình thức, từ việc cấy phôi mang gen của cả 2 vợ chồng vào tử cung của người đẻ thuê hoặc thực hiện “trực tiếp” giữa người chồng và người nhận mang thai hộ, những đứa trẻ có được bằng phương pháp này lần lượt ra đời. Nhà nước mặc dù cấm nhưng vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và pháp lí để bảo vệ quyền, lợi ích cho những trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ trái pháp luật này.

Sở dĩ pháp luật thời kỳ này không cho phép mang thai hộ bởi nhiều lý do:

Thứ nhất: nhìn dưới góc độ pháp lý, cấm mang thai hộ là bởi mang thai hộ vốn là một vấn đề vô cùng nhạy cảm trong xã hội cũng như trong nền khoa học pháp lý. Nếu thừa nhận mang thai hộ sẽ dẫn đến sự gia tăng tình trạng mua bán trẻ sơ sinh bất hợp pháp, lách luật để sinh con thứ ba…cũng như ảnh hưởng tới nhiều chế định trong Luật HN&GĐ 2000, trong đó có chế định xác định quan hệ cha, mẹ, con, gây khó khăn, phức tạp trong quá trình giải quyết quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan.

Theo Luật HN&GĐ 2000 nguyên tắc xác định cha, mẹ, con là dựa vào sự kiện sinh đẻ, theo đó, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ (dù nó cùng hay không cùng huyết thống với người đã sinh ra nó). Vì vậy, nếu quy định về mang thai hộ sẽ làm đảo lộn phương pháp xác định cha, mẹ, con theo truyền thống bởi lúc này, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ không phải là mẹ của đứa trẻ nữa, thay vào đó, người được xác định là mẹ của đứa trẻ lại là một người phụ nữ khác không trực tiếp sinh ra nó. Như vậy, nguyên tắc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ là một ngoại lệ.

Thứ hai, nhìn dưới góc độ đạo đức, có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức, đi ngược lại truyền thống dân tộc, vì vậy khi nói đến mang thai hộ đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhiều người. Đến năm 2000-2001, với những thành tựu của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y học, người dân đã biết đến và dần chấp nhận một hình thức sinh sản mới đó là sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Vì pháp luật nghiêm cấm mang thai hộ nên trong trường hợp mang thai hộ bị phát hiện thì sẽ bị xử phạt hành chính. Cụ thể, khoản 3 Điều 10 Nghị định số 96/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh như sau:“phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến

40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: mang thai hộ; sinh sản vô tính; cấy tinh trùng, noãn, phôi giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời”. Dù pháp luật nghiêm cấm mang thaihộ nhằm hạn chế những tiêu cực xảy ra nhưng khi quy định này được áp dụngvào thực tiễn đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Cụ thể:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

Một là: NĐ 12/2003/NĐ-CP chỉ quy định nghiêm cấm mang thai hộ và sinh sản vô tính trong khi chưa có bất cứ sự giải thích nào của pháp luật về phương pháp mang thai hộ, gây khó khăn cho công tác thực thi pháp luật.

Hai là: Phạm vi đối tượng mà NĐ 12/2003/NĐ-CP đưa ra quá rộng, nghiêm cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức. Đối với những cặp vợ chồng trong đó người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tự nhiên thì quy định này vô hình chung đã hạn chế quyền quyền được làm cha, làm mẹ của họ.

Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay - 5

Ba là: Các vấn đề pháp lý có liên quan như xác định cha, mẹ cho đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan như: người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ… cũng không được pháp luật đề cập tới [6, tr30-33].

Với nhu cầu của các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn muốn có con hoặc vì các mục đích khác thì mặc dù pháp luật không quy định nhưng vẫn có rất nhiều các trường hợp vẫn “lén lút” mang thai hộ “chui” bằng nhiều hình thức khác nhau, thậm chí là ra nước ngoài, nơi cung cấp dịch vụ mang thai hộ dẫn đến nhiều rủi ro như: người nhận mang thai hộ không giao đứa bé cho bên nhờ mang thai hộ như đã thỏa thuận, trong quá trình mang thai hộ không thực hiện đúng thỏa thuận như thăm khám, phát sinh những rắc rối về mặt giấy tờ pháp lý… đặc biệt khi có tranh chấp phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và người nhận mang thai hộ về việc xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ, quyền

và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt thòi, ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ cũng như của các bên liên quan.

Theo xu hướng này, Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ hợp thứ 7 (Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014), quy định chính thức về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thể hiện tính nhân văn sâu sắc của pháp luật nước ta.

2.1.1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

A. Quy định về mang thai hộ trong luật Hôn nhân và Gia đình 2014 Hơn 10 năm sau, luật Hôn nhân và Gia đình 2014 căn cứ theo điều kiện thực tiễn phát triển xã hội đã có sửa đổi và quy định về việc mang thai hộ. Bổ sung hai khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang thai hộ vì mục đích thương mại cùng các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Trong đó, tại điểm g khoản 2 điều 5 về “Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình” cũng có quy định “nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại” cùng với các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính.

Theo đó, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Còn mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Như vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại được phân định bởi việc giữa hai bên có thỏa thuận về việc bên mang thai hộ được hưởng lợi về kinh tế hay các lợi ích khác hay không.

Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể và chặt chẽ các điều kiện cho việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; buộc các bên tham gia vào quá trình mang thai hộ phải tuân thủ. Đây là cơ chế kiểm soát cho việc mang thai hộ không bị chệch hướng và là cơ sở pháp lý để việc mang thai hộ có hiệu lực; chi phối quyền và nghĩa vụ của các bên và

được bảo đảm thực hiện trong quá trình mang thai hộ. Việc mang thai hộ phải bảo đảm các nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

a) Đối với người nhờ mang thai hộ

Thứ nhất, cặp vợ chồng vô sinh muốn nhờ mang thai hộ là phải tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp, nghĩa là quan hệ hôn nhân phải được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Đây là quy định nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau cũng như đối với đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ [2, tr13]. Quy định này khác với trường hợp các đối tượng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, được áp dụng cho cả người phụ nữ độc thân và cặp vợ chồng vô sinh ( Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 ; Khoản 1 điều 3 NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP /2015/NĐ-CP).

Điều 3. Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

1. Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Theo quy định trên thì việc mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với trường hợp là cặp vợ chồng vô sinh, còn đối với trường hợp là phụ nữ độc thân chỉ có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Đối với nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới (gọi tắt là LGBT), do pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nên với tư cách là cá nhân đơn lẻ, họ cũng không được phép nhờ mang thai hộ. Đặc biệt là các cặp đồng tính nam muốn có đứa con ruột thịt của mình bằng việc nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ cũng không được chấp thuận.

Thứ hai, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng vô sinh. Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình từ 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai. 1

Đối với cặp vợ chồng vô sinh, nguyên nhân có thể do vợ hoặc chồng và người vợ cũng không thể mang thai được ngay cả khi có sự can thiệp của các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Song vẫn phải đảm bảo điều kiện là người chồng có tinh trùng, người vợ có noãn được xác định là đảm bảo chất lượng để kết hợp thụ tinh. Đây


1 Xem: Khoản 2 điều 2 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

là điều kiện nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai hộ cũng như việc giao nhận con sinh ra từ việc mang thai hộ được thực hiện một cách tốt nhất.

Thứ ba, vợ chồng đang không có con chung. Với điều kiện này, do chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan có thẩm quyền nên có thể suy đoán theo các trường hợp sau:

-Vợ chồng vô sinh, chưa có con chung với nhau nên được quyền nhờ mang thai hộ

- Vợ chồng tuy đã có con chung nhưng con sau khi sinh đã chết vẫn được quyền nhờ mang thai họ (vì hiện tại vợ chồng chưa có con chung và pháp luật không hạn định về số lần nhờ mang thai hộ của cặp vợ chồng vô sinh)

- Vợ chồng dù đã có con chung nhưng con bị mắc các chứng bệnh tâm thần, bênh down….thì về nguyên tắc không được nhờ mang thai hộ. Tuy vậy, nếu không được nhờ mang thai hộ thì không phù hợp với thực tế khi nguyện vọng chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuê. Trong trường hợp này, pháp luật cần xem xét nguyện vọng chính đáng để cho phép các vợ chồng vô sinh được nhờ mang thai hộ [1, tr17].

Thứ tư, vợ chồng nhờ mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Thông qua việc tư vấn, người nhờ mang thai hộ được cung cấp thông tin cần thiết về mặt y tế, mặt pháp lý cũng như mặt tâm lý. Điều kiện này là rất cần thiết để cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ hình dung được toàn bộ quá trình mang thai hộ, những vấn đề phát sinh xung quanh việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của mình trong việc nhờ mang thai hộ. Từ đó, họ quyết định có thực hiện nhờ mang thai hộ hay không. Điều này cũng là tiền đề đảm bảo cho trẻ em sinh ra từ việc mang thai hộ được hưởng các quyền lợi của mình và được pháp luật bảo vệ.

b) Đối với người mang thai hộ:

Khoản 3 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình 214 quy định điều kiện đối với người được nhờ mang thai hộ như sau:

a) Phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;

b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;

c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;

d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;

e) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý;

Trước hết, người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo xác định: “Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị,em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác nha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ, hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ” 2. Điểm a Khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã quy định người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.

Việc pháp luật quy định như vậy nhằm tránh các hành vi trục lợi, lợi dụng điều này để thương mai hóa hành vi mang thai hộ. Việt Nam hiện nay về trình độ y học hoàn toàn đủ khả năng để thực hiện được kỹ thuật y tế liên quan đến thụ tinh ống nghiệm để phục vụ cho mang thai hộ. Nhưng vấn đề ở đây liên quan đến mặt đạo đức xã hội. Sự lo ngại về mang thai hộ sẽ bị thương mại hóa trong khi bản chất của nó là phải vì nhân đạo bởi lẽ pháp luật cấm việc buôn bán người và trẻ em không phải một dạng hàng hóa để mua bán đổi chác. Việc quy định người nhờ mang thai hộ phải là người thân thích trong gia đình sẽ làm giảm bớt lợi ích mà bên được nhờ mang thai hộ đòi hỏi các điều kiện, đảm bảo hạn chế những biến tướng của việc mang thai hộ đồng thời cũng ngăn chặn những nguy cơ có thể phá vỡ kết cấu và hạnh phúc gia đình. Hơn nữa nếu là người trong gia đình thì sẽ đảm bảo được dòng máu, gen di truyền và phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam.

Thứ hai, người mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần. Điều kiện này nhằm đảm bảo có sự trải nghiệm, kinh nghiệm của người mang thai hộ với thiên chức làm mẹ; bảo đảm sự hòa hợp về tình cảm, tâm lí của cả hai bên nhờ và bên nhận mang thai hộ trong quá trình mang thai hộ. Mang thai và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua nhiều gia đoạn khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc đặc biệt để đảm bảo sự phát triển của thai nhi trong bụng. Người đã mang thai và sinh con một lần sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc chăm sóc và giữ gìn sự an toàn, sức khỏe của thai nhi hơn cũng như biết cách phòng ngữa những biến chứng,


2Xem: Khoản 2 điều 7 Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP

những tác động không tốt đến sức khỏe của thai nhi. Mặt khác, điều kiện này bảo đảm sức khỏe cho bên mang thai hộ cũng như các quy định khác liên quan, ví dụ như chính sách kế hoạch hóa gia đình của Nhà Nước.

Thứ ba, người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Mặc dù hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về độ tuổi phù hợp để mang thai hộ nhưng cũng có thể khẳng định người mang thai hộ phải đang ở trong độ tuổi sinh sản tốt nhất. Nếu dưới 18 tuổi là độ tuổi pháp luật chưa cho phép mang thai và cơ thể của người phụ nữ lúc đó được cho là chưa hoàn thiện về mặt sinh học, chưa phù hợp để sinh con. Còn sau tuổi 30, khả năng sinh nở của người phụ nữ bắt đầu giảm dần và đó là lý do vì sao các cặp vợ chồng khó có con hơn và cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề sinh sản hơn. Qua tuổi 40, khả năng sinh sản của nữ giới bắt đầu giảm, trứng rụng thưa dần, mỗi năm có thể có vài chu kỳ kinh nguyệt không có trứng rụng. Đến một lúc nào đó, người phụ nữ sẽ bước vào thời kỳ mãn kinh, kết thúc tuổi sinh sản. Vì thế theo tác giả, có thể suy ra độ tuổi sinh sản phù hợp nhất với quy định này là từ trên 18 đến dưới 35 tuổi. Sự xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ đảm vảo cho sự an toàn về điều kiện sức khỏe của người mang thai hộ và của thai nhi, đảm bảo cho việc mang thai hộ đạt được kết quả như mong muốn.

Thứ tư, người phụ nữ mang thai hộ phải được sự đồng ý bằng văn bản của người chồng nếu đang có chồng.Đây là điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ. Điều kiện về ý chí của các bên trong việc mang thai hộ là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện. Việc yêu cầu sự đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ là sự cần thiết. Bởi việc mang thai hộ lúc này không phải là chuyện riêng của người vơ mang thai hộ mà là việc chung của cả hai vợ chồng và của gia đình riêng của họ. Ý chí thỏa thuận đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ còn là cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh và thực thi các quyền, nghĩa vụ của hai bên trong quá trình mang thai hộ cũng như giải quyết các hệ quả pháp lý liên quan đến việc mang thai hộ. Trường hợp chồng của người phụ nữ mang thai hộ không đồng ý thì không thể thực hiện quá trình mang thai hộ.

Thứ năm, người mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là điều kiện bắt buộc để việc mang thai hộ được thực hiện. Điều kiện này cũng tương tự như đối với người nhờ mang thai hộ, giúp cho người mang thai hộ cân

nhắc về việc có nên thực hiện mang thai hộ người khác hay không. Người mang thai hộ phải được biết các vấn đề liên quan đến việc mang thai hộ như: vấn đề về sức khỏe, sự an toàn, sự rủi ro có thể xảy ra của quá trình mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của 2 bên,… để từ đó có quyết đúng đắn và thỏa mãn nguyện vọng của mình đồng thời chuẩn bị tâm lý ổn định cho việc mang thai hộ chuẩn bị được thực hiện.

c) Về điều kiện của cơ sở khám, chữa bệnh phải đáp ứng các điều kiện về máy móc, thiết bị y tế, nhân sự.

Hiện có 3 cơ sở khám bệnh được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đó là:

– Bệnh viện Phụ sản trung ương;

– Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế;

– Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh

d) Về thủ tục thực hiện việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Thực hiện việc thỏa thuận bằng văn bản với người mang thai hộ, bao gồm những nội dung sau đây:

– Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên quan

– Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

– Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;

– Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.

Văn bản mang thai hộ cần thực hiện công chứng theo quy định của pháp luật.

Cặp vợ chồng chuẩn bị hồ sơ, gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này, gồm:

- Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định này;

Xem tất cả 85 trang.

Ngày đăng: 07/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí