Tính Tương Thích Với Các Văn Bản Pháp Luật Quốc Tế Mà Việt Nam Đã Tham Gia, Ký Kết Và Phê Chuẩn

trái với đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng. Phù hợp với quan điểm của Đảng thì nhiệm vụ cao nhất của pháp luật là bảo đảm được quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử với phụ nữ.

Sự đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật với đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng về quyền của phụ nữ phải trải qua một bước đệm là nhận thức, và từ nhận thức sâu sắc về nghĩa vụ và trách nhiệm phải bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ tham gia vào đời sống xã hội mới có thể xây dựng và thông qua những quy phạm pháp luật phù hợp. Nhận thức đó phải dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu phải thực hiện trách nhiệm quốc gia theo quy định của Công ước CEDAW. Như vậy, phải nhận thức sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng về quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử với phụ nữ về quyền của phụ nữ tham gia vào đời sống, trên cơ sở đó thể chế hóa thành nội dung cụ thể của các quy định trong văn bản pháp luật và thường xuyên tổng kết xem xét việc thực hiện trong thực tế như thế nào để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền chính trị của phụ nữ trên thực tế.

1.4.3. Tính phù hợp và khả thi

Tính phù hợp của pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ phải thể hiện mối quan hệ giữa những quy phạm pháp luật nhằm xác lập vị trí và bảo vệ quyền của phụ nữ với trình độ phát triển, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước và khả năng cũng như tiềm năng của phụ nữ. Pháp luật về quyền của phụ nữ phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu khách quan do sự phát triển cả về lượng lẫn về chất của phụ nữ.

Về lý thuyết, pháp luật về quyền của phụ nữ được hình thành để điều chỉnh các quan hệ của phụ nữ trong đời sống xã hội, trên cơ sở bình đẳng và không phân biệt đối xử. Tuy nhiên, trong quá trình điều chỉnh này, pháp luật

chịu sự tác động và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện chính trị của đất nước. Chính vì vậy, pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ phải luôn gắn liền và bám sát với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện chính trị. Nếu trình độ phát triển kinh tế - xã hội đi quá nhanh, đẩy nhanh sự phát triển về nhu cầu dân chủ và quyền bình đẳng, nhưng pháp luật về quyền của phụ nữ lại không bắt kịp thì sẽ càng dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới, nhất là trong quản lý nhà nước và kinh tế. Ngược lại, pháp luật về quyền của phụ nữ không thể phát triển nhanh hơn trình độ phát triển kinh tế - xã hội, bởi chỉ có thể là trình độ phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện và hoàn cảnh yêu cầu khách quan cần có sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong đời sống xã hội quy định và là cơ sở để phát triển pháp luật về quyền của phụ nữ.

Hiện nay, phụ nữ có điều kiện để phát triển toàn diện về mọi mặt, kể cả vấn đề học thức. Cùng với xu thế phát triển đó, Đảng và Nhà nước ta không chỉ quan tâm mà còn đặt yêu cầu đối với sự tham gia của phụ nữ vào công việc xã hội và quản lý xã hội ở mức độ sâu hơn. Chủ trương và chính sách của Đảng để phụ nữ được hưởng đầy đủ quyền chính trị của họ là có, song điều đáng tiếc là pháp luật để bảo đảm cho họ được hưởng quyền này lại chưa theo kịp cả về chủ trương lẫn yêu cầu khách quan đặt ra từ sự phát triển của xã hội và của chính bản thân phụ nữ. Bên cạnh đó, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ phải phù hợp với thực tế lịch sử của đất nước; đồng thời khi chúng ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận và tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế.

Có thể thấy rằng, tính phù hợp của hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ cũng thể hiện mối quan hệ không thể tách rời với nhiệm vụ xây dựng pháp chế dân chủ của đất nước, phù hợp với chủ trương xây dựng nước ta theo định hướng "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ".

1.4.4. Tính hiệu lực

Hiệu lực của pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ có nghĩa là phải có các thiết chế bảo đảm thực hiện quyền của phụ nữ trên thực tế. Muốn vậy, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ phải bao gồm những quy phạm pháp luật: thứ nhất, có tính giáo dục và thuyết phục cao nhằm nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử với phụ nữ tham gia vào đời sống xã hội và gia đình; thứ hai, quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, bộ máy thực thi và giám sát việc thực hiện quyền của phụ nữ; và thứ ba, có những chế tài xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm quyền của phụ nữ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Mặc dù pháp luật đã có nhiều quy định khá chặt chẽ và cụ thể về quyền của phụ nữ nhưng hiệu lực của những quy phạm pháp luật về quyền của phụ nữ lại tương đối thấp, trên thực tế có nơi này, nơi kia tỉ lệ phụ nữ tham gia làm công tác quản lý còn thấp và phụ nữ vẫn còn bị coi nhẹ trong khi có rất nhiều chị em đã khẳng định được năng lực, trình độ và phẩm chất của mình. Để xảy ra tình trạng này, không thể không xét đến tính nghiêm minh của các quy phạm pháp luật. Sự hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ chỉ có thể được xác định khi các quy phạm pháp luật về quyền của phụ nữ có được đời sống thực tế, được xây dựng theo đúng trình tự pháp luật. Vì đã được coi là một tiêu chí để xác định sự hoàn thiện của pháp luật về quyền của phụ nữ, nên yêu cầu về tính hiệu lực đòi hỏi phải được kết hợp hài hòa giữa các quy định mang tính nguyên tắc, khuôn mẫu chung với các quy phạm nhằm bảo đảm thực hiện; sự đồng bộ từ quá trình xây dựng đến khi ban hành luật và các văn bản dưới luật để hướng dẫn thực hiện; đồng thời xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy định pháp luật về việc bảo đảm thực hiện quyềncủa phụ nữ. Tính hiệu lực còn thể hiện trong việc thiết lập cơ chế áp dụng luật, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành luật và giám sát thực thi pháp luật.

1.4.5. Tính tương thích với các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết và phê chuẩn

Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay - 7

Trong một thời gian dài, trình độ xây dựng pháp luật và chất lượng pháp luật của chúng ta chưa theo kịp trình độ phát triển của đất nước và của thời đại. Điều này, một mặt, là do chúng ta chịu hậu quả của chính sách bao vây và cấm vận, không có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, hạn chế sự tiếp thu những tinh hoa và phát triển mới trong hệ thống pháp luật quốc tế; mặt khác, về chủ quan, chúng ta cũng chưa quan tâm đúng mức đến công tác lập pháp, phát triển và xây dựng pháp luật nói chung và chuyển hóa pháp luật quốc tế vào nội dung pháp luật trong nước nói riêng.

Để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ rất cần phải tham khảo quá trình xây dựng và phát triển pháp luật về phụ nữ của các nước, các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam đã tham gia. Xét về tổng quan pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở nước ta, nhiều quy định đã được luật hóa trong Hiến pháp, trong nhiều luật và bộ luật. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, chúng ta còn cần phải thực hiện các nghĩa vụ quốc tế. Nghĩa là, có nhiều quy phạm pháp luật trong các điều ước quốc tế về quyền của phụ nữ thể hiện những mặt tiến bộ cần phải nội luật hóa hoặc làm cơ sở để tham khảo. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể tham khảo các văn bản pháp luật tiến bộ về bảo vệ quyền của phụ nữ của các nước. Việc tham khảo, và nếu trong trường hợp áp dụng, không chỉ là sự kế thừa các thành tựu và sự tiến bộ của hệ thống pháp lý văn minh nhân loại, mà còn thể hiện sự giao lưu và tiếp cận có kế thừa giữa các quy định pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế. Như vậy, pháp luật của chúng ta sẽ hoàn thiện hơn cả trong bối cảnh quốc gia và trong mối tương quan với pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ.

Kết luận Chương 1

Ngày nay, việc bảo vệ nhân quyền đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu, không phải của riêng mỗi Nhà nước nào, trong đó có quyền phụ nữ.

Pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ là một công cụ bảo vệ quyền của phụ nữ quan trọng của Nhà nước trong hệ thống các công cụ. Để công cụ này phát huy được hiệu lực, hiệu quả, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ theo các nội dung: 1) hệ thống quy phạm về quyền của phụ nữ, và 2) hệ thống quy phạm để đảm bảo thực hiện các quyền đó trên thực tế.

Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ là một đòi hỏi tất yếu của pháp luật quốc tế và pháp luật mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Việt Nam đang tích cực thực hiện quyền con người và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do vậy việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ vừa có những nét chung của hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền con người, những cũng có những nét riêng mang tính đặc thù.

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ phải bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khả thi và tương thích với các công ước quốc tế đã tham gia, ký kết của các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.

Trên cơ sở những vấn đề lý luận được trình bày ở Chương 1, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu vài việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong lĩnh vực chính trị.

Chương 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


2.1. Thực trạng quy định pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở việt nam

Giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, tỷ lệ phụ nữ cao hơn chút ít so với nam giới. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Tổng điều tra dân số và nhà ở 01/4/2009, dân số Việt Nam là 85.846.997 người, trong đó phụ nữ là 43.433.854 người. Mức tăng dân số tiếp tục giảm. Tỷ suất tăng dân số bình quân năm giảm từ 1,7 % thời kỳ năm 1989 -1999 xuống 1,2% của thời kỳ 1999 -2009. Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33.1% vào năm 1999 xuống còn 25% vào năm 2009. Tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh tăng liên tục và đã đạt 72,8 tuổi [52].

Trong lĩnh vực bảo vệ quyền phụ nữ, Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination Against Women - CEDAW) được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn và thông qua ngày 18-12-1979 là văn bản pháp lý quốc tế trực tiếp điều chỉnh. Có thể nói, đây là một văn bản pháp lý quốc tế toàn diện nhất từ trước đến nay về vấn đề phụ nữ và sự ra đời của Công ước đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh cho quyền bình đẳng nam nữ. Công ước xứng đáng đóng vai trò kim chỉ nam cho các hoạt động vì sự tiến bộ, bình đẳng và phát triển hoà bình.

Việt Nam thuộc vào nhóm quốc gia sớm tham gia CEDAW (là nước thứ 6 trên thế giới ký Công ước (29-7-1980) và là nước thứ 35 phê chuẩn Công ước (19/3/1982), và được đánh giá là quốc gia có truyền thống bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ tốt đẹp hơn so với nhiều nước trong khu vực, đã đạt được nhiều thành tựu trong việc thực hiện Công ước này [24, tr.605]. Hệ

thống pháp luật hiện hành của Việt Nam về bình đẳng giới và quyền phụ nữ bao gồm nhiều văn bản ở nhiều cấp độ, liên quan đến nhiều lĩnh vực; tuy nhiên, các văn bản quan trọng nhất là Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật HN&GĐ), Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007.

Năm 2013, Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam được sửa đổi, có nhiều thay đổi căn bản về quyền con người và quyền công dân, sẽ là cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ trong giai đoạn tới. Trong phần này, Luận văn chủ yếu đề cập tới Hiến pháp năm 1992 với vai trò là cơ sở pháp lý nền tảng của hệ thống pháp luật Việt Nam thời gian qua, trong đó có pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ.

Kết quả nghiên cứu hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và bảo vệ quyền phụ nữ cho thấy, nước ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật khá hoàn thiện (về vấn đề này). Hệ thống quy phạm điều chỉnh bảo vệ quyền phụ nữ và bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt, chúng được xây dựng ngày càng phù hợp với Công ước CEDAW.

Khái quát thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam, có thể thông qua khái quát một số quy định pháp luật hiện hành quan trọng của Nhà nước liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ trên một số lĩnh vực chủ yếu sau: i) chính trị, ii) kinh tế, iii) lao động, việc làm, iv) giáo dục và đào tạo,

v) chăm sóc y tế, vi) hôn nhân và gia đình, vii) văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, khoa học và công nghệ [24, tr.607-620].

2.1.1. Bảo vệ quyền phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Đảng và chính phủ Việt Nam chủ trương tham gia của phụ nữ và bộ máy lãnh đạo. Các chỉ thị, nghị định và quyết định và quyết định của ban chấp hành Trung ương Đảng đã được ban hành trong nhiều năm qua nhằm thu hút nhiều phụ nữ vào lĩnh vực hoạt động chính trị. Những nội dung cơ bản về tăng cường bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:

Phụ nữ và nam giới bình đẳng trong tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: Điều 53 hiến pháp 1992 đã ghi: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước…” [36]. Tiếp đó, một loạt các văn bản pháp luật ở các lĩnh vực đã cụ thể hóa quyền tham gia của phụ nữ và nam giới vào đời sống chính trị như luật bầu cử đại biểu quốc hội (2001); luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân (sửa đổi năm 2001), luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, bộ luật lao động (sửa đổi năm 2003) và luật bình đẳng giới (2006). Nguyên tắc xuyên suốt là chống đối xử giữa nam và nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tương ứng với nội dung của các Điều 7,8 CEDAW, Điều 63 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nêu rõ: “Công dân nam và nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” [36, Điều 63].

Thể chế hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 11 Luật Bình đẳng giới năm 2006 khẳng định, phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong những lĩnh vực và vấn đề cụ thể như: 1) Tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; 2) Tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; 3) Tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; 4) Bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. Điều này đồng thời nêu ra hai biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, đó là: 1) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; 2) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2024