LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian vừa qua để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, tăng cường vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy Nhà nước đã thực hiện chủ trương tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước và thành lập các doanh nghiệp Nhà nước có qui mô lớn, kinh doanh trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Theo chủ trương đó, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 về thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế. Việc thành lập này sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong tương lai. Tập đoàn kinh tế (TĐKT) là một cơ cấu sở hữu được tổ chức thành hệ thống với quy mô lớn, vừa có chức năng sản xuất - kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế thông qua hoạt động trên nhiều ngành, nhiều lĩnh vực ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng của Việt Nam đòi hỏi phải có những tập đoàn kinh tế mạnh, giữ vai trò chủ đạo và điều tiết một số lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế để hạn chế sự thao túng và chi phối của nhiều công ty đa quốc gia và các tập đoàn kinh tế tư bản quốc tế xâm nhập vào Việt Nam khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Song các tập đoàn kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên các tổng công ty có quy mô chưa lớn, yếu kém trong quản lý. Kinh doanh đạt hiệu quả thấp, chưa phát huy tốt vai trò chủ lực trong nền kinh tế. Một số làm ăn thua lỗ kéo dài và lâm vào tình trạng phá sản. Nhiều tập đoàn nhà nước đầu tư dàn trải, không tập trung vào ngành kinh doanh chính, đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro và không thuộc thế mạnh của mình như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng, nợ nần chồng chất của một số TĐKT đã được phát hiện và báo động từ nhiều năm nay như Vinashin, Vinalines. Bên cạnh đó Nhà Nước còn nhiều hạn chế, thiếu sót trong các chính sách, pháp luật đã ban hành liên quan đến các tập đoàn, dẫn đến những tồn tại, yếu kém trong tổ chức quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại các doanh nghiệp này. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những yếu kém đó, trong đó có nguyên nhân quan trọng là kiểm soát nội bộ kém hiệu quả.
Năm 2009 trong ngành hoá chất nhà nước đã ký quyết định thành lập Tập đoàn Hoá chất Việt Nam dựa trên cơ sở sắp xếp lại Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam. Với qui mô lớn và hoạt động đa ngành nghề thì việc phải thiết lập một HTKSNB đủ mạnh để hỗ trợ để hỗ trợ cho công tác quản lý là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo cho tập đoàn đạt được các mục tiêu như: bảo vệ tài sản, đảm bảo độ tin cậy của thông tin, đảm bảo thực hiện các qui định đề ra, đảm bảo hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên tập đoàn được thành lập không phải do quá trình tích tụ vốn và phát triển qui mô dần trở thành tập đoàn như các nước trên thế giới nên trong quá trình hoạt động còn rất nhiều hạn chế như: vẫn còn dựa vào bao cấp, độc quyền, kinh doanh đạt hiệu quả thấp chưa tương xứng với những lợi thế và sự đầu tư của nhà nước, đầu tư ra ngoài ngành kém hiệu quả. Chưa tách bạch được vai vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước. Sự tích tụ, tập trung vốn và kiểm soát vốn còn nhiều hạn chế. Một số vị trí quản lý chủ chốt được bổ nhiệm vì lý do chính trị mà không dựa trên năng lực quản trị kinh doanh. Hệ thống thông tin tiềm ẩn
nhiều hạn chế không thực sự hữu dụng cho quá trình ra quyết định. Rất ít các đơn vị thuộc tập đoàn có được những chính sách và thủ tục KSNB riêng phù hợp với thực tiễn của đơn vị. Hơn nữa một trong bảy nội dung chủ yếu theo chủ trương tái cơ cấu Tập đoàn giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ thì là phải tăng cường công tác KSNB tại Tập đoàn.
Xuất phát từ những lý do trên, hoàn thiện hệ thống KSNB tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam trở thành vấn đề có tính cấp bách trong quản lý, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Tác giả đã lựa chọn Đề tài: "Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam" làm đề tài Luận án tiến sĩ của mình.
2. Tổng quan các nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ
Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ trên những khía cạnh và lĩnh vực khác nhau. Luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu và rút ra kết luận.
Thứ nhất, các lý luận về hệ thống KSNB trên thế giới đã phát triển tập trung làm rõ các khái niệm về hệ thống KSNB, vai trò của hệ thống KSNB trong doanh nghiệp, các tiêu chí và công cụ để đánh giá hệ thống KSNB, các bộ phận cấu thành của hệ thống KSNB. Năm 1929, khái niệm về KSNB và công nhận vai trò của hệ thống KSNB trong doanh nghiệp được đưa ra trong các văn bản hướng dẫn của các tổ chức nghề nghiệp và quản lý công bố của Cục Dự trữ Liên bang Hoa kỳ. Nó được sử dụng trong các tài liệu kiểm toán và được hiểu là một công cụ nhằm bảo vệ tài sản, tuân thủ pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đưa ra các tiêu chuẩn tìm hiểu về hệ thống KSNB. Năm 1934, Ủy ban Chứng khoán Hoa kỳ vận dụng khái niệm về KSNB để soạn thảo pháp luật về giao dịch chứng khoán Hoa kỳ, trong đó có nêu vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với việc bảo đảm các mục tiêu cơ bản như: quy định các tiêu chuẩn về cung cấp thông tin và mô hình các hành vi, qua đó tổ chức phát hành phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, rõ ràng, phản ánh hoạt động kinh doanh, rủi ro, lợi nhuận của dự án đầu tư mới hay các hoạt động đang diễn ra. Điều này nhằm mục đích khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện các quyết định đầu tư mua, bán hay giữ chứng khoán một cách hợp lý trong tình trạng đầy đủ thông tin. Luật pháp cũng quy định các chế tài nghiêm khắc nhằm ngăn chặn các hành vi xuyên tạc thông tin, lừa dối, gian lận trên thị trường chứng khoán. Năm 1936, Hiệp hội kiểm toán viên công chứng Hoa kỳ (AICPA) đã xác định KSNB có tác dụng bảo vệ tiền và tài sản cũng như kiểm tra tính chính xác trong ghi chép của sổ sách từ đó cung cấp các số liệu kế toán tin cậy, thúc đẩy hoạt động có hiệu quả, khuyến khích sự tuân thủ các chính sách của nhà quản lý. Năm 1958, trong tài liệu qui định phạm vi của kiểm toán viên độc lập xem xét KSNB, trong đó lần đầu tiên phân biệt KSNB về quản lý và KSNB về kế toán.
Đến năm 1970, khi thiết kế hệ thống kế toán và kiểm toán, người ta đặc biệt chú ý đến KSNB tại doanh nghiệp và coi việc hoàn thiện nó là công việc của kiểm toán viên. Năm 1977, lần đầu tiên khái niệm về hệ thống KSNB xuất hiện trong một văn bản pháp luật của Hạ viện Hoa Kỳ, nó được đúc rút từ sau vụ bê bối với các khoản thanh toán bất hợp pháp cho chính phủ nước ngoài. Đến thập niên 80 (1980-1988), với sự sụp đổ hàng
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện Hệ thống kiểm soát nội bộ tại tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam - 1
- Thực Trạng Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ Tại Tập Đoàn Hóa Chất Việt Nam Chương 3: Phương Hướng Và Giải Pháp Hoàn Thiện Hệ Thống Kiểm Soát Nội
- Khái Quát Qui Trình Đánh Giá Rủi Ro Của Coso
- Các Yếu Tố Cấu Thành Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
ban hành nhiều quy định hướng dẫn như: Qui định về các qui tắc đạo đức, kiểm soát và làm rõ chức năng của KSNB; Qui định về phòng chống gian lận báo cáo tài chính; Các nguyên tắc về báo cáo trách nhiệm và đánh giá hiệu quả của KSNB.
Như vậy, từ trước năm 1929 đến năm 1992, lý luận về KSNB không ngừng được mở rộng, tuy nhiên KSNB vẫn chỉ dừng lại là một phương tiện phục vụ cho các kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính, có nhiều quan điểm không đồng nhất về KSNB, do đó dẫn đến yêu cầu phải hình thành một hệ thống lý luận có tính chuẩn mực về KSNB.
Đến năm 1992, các công ty ở Hoa kỳ phát triển rất nhanh, kèm theo đó là tình trạng gian lận, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Do đó, nhiều uỷ ban ra đời để tìm cách khắc phục và ngăn chặn các gian lận, hỗ trợ phát triển kinh tế trong đó có Uỷ ban COSO (Committee Of Sponsoring Organizations) là một uỷ ban gồm nhiều tổ chức nghề nghiệp nhằm hỗ trợ cho Uỷ ban Treadway như: Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA), Hội kế toán Hoa Kỳ (AAA), Hiệp hội các nhà quản trị tài chính (FEI), Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA) và Hiệp hội kế toán viên quản trị (IMA) đã đưa ra khuôn mẫu lý thuyết chuẩn cho kiểm soát nội bộ. Báo cáo của COSO gồm 4 phần và là tài liệu đầu tiên trên thế giới nghiên cứu một cách đầy đủ có hệ thống về KSNB, làm nền tảng cho lý thuyết về KSNB hiện đại sau này. Điểm mới của báo cáo là đã đưa ra được các bộ phận cấu thành của hệ thống KSNB (môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, giám sát), các tiêu chí cụ thể để đánh giá hệ thống KSNB cho mục tiêu báo cáo thông tin tài chính, đưa ra được các công cụ đánh giá hệ thống KSNB, KSNB không còn chỉ là một vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính mà còn mở rộng ra các lĩnh vực hoạt động và tuân thủ. Như vậy có thể nói báo cáo của COSO là một khung lý thuyết căn bản để các nhà nghiên cứu sau này phát triển khung lý thuyết đó và hoàn thiện nó hơn trong những điều kiện và môi trường kinh doanh cụ thể. Cũng từ đây khi nói về KSNB nhà quản lý sẽ nhìn nhận một cách cụ thể hơn vai trò cũng như các bộ phận cấu thành của nó để từ đó để thiết kế, vận hành sao cho KSNB phát huy được hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Sau Báo cáo COSO, đã có hàng loạt nghiên cứu mở rộng và phát triển lý luận về KSNB trên nhiều lĩnh vực như: Sử dụng báo cáo COSO là nền tảng đánh giá hệ thống KSNB trong kiểm toán độc lập về kiểm toán báo cáo tài chính và ảnh hưởng của công nghệ thông tin đến việc xem xét KSNB trong báo cáo tài chính được thể hiện trong Chuẩn mực kiểm toán Hoa Kỳ; Vận dụng KSNB của COSO vào hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong Báo cáo Basel của Uỷ ban Basel
Trong lĩnh vực kiểm toán một số công trình nghiên cứu cũng đề cập đến kiểm soát, kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với kiểm toán nội bộ: Tác giả Victor Z.Brink và Herbert Witt (1941) về “Kiểm toán nội bộ hiện đại – đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm soát”; Tác giả O.Ray Wittington và Kurt Pany (1995) về “Các nguyên tắc của kiểm toán” [32]
Trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, KSNB cũng được đề cập rất rõ ràng trong mối quan hệ biện chứng với công tác quản trị: Tác giả Merchant, K.A (1985) về “Kiểm soát trong tổ chức kinh doanh”; Tác giả Anthonny, R.N và Dearden, J.Bedford (1989)
quản trị rủi ro trong mối quan hệ với KSNB”; Tác giả Yuan Li, Yi Liu, Younggbin Zhao (2006) “Nghiên cứu về vai trò định hướng thị trường của doanh nghiệp và KSNB có tác động đến hoạt động phát triển sản phẩm mới” [32]
Thứ hai, hệ thống lý luận về hệ thống KSNB ở Việt Nam thể hiện ở những cuốn giáo trình, sách, tạp chí, báo, các bài viết tập trung nghiên cứu khái niệm về hệ thống kiểm soát nội bộ, các yếu tố cấu thành hệ thống KSNB, vai trò và trách nhiệm của các đối tượng có liên quan đến KSNB, những hạn chế tiềm tàng của hệ thống KSNB, trình tự và phương pháp nghiên cứu hệ thống KSNB của kiểm toán viên. Năm 2007, Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh xuất bản lần thứ 5 cuốn kiểm toán, trong cuốn sách này có chương 3 đề cập tới hệ thống KSNB [29]. Tác giả Nguyễn Quang Quynh (2006) tái bản lần 2 cuốn “Giáo trình kiểm toán tài chính” có chương 4 đánh giá hệ thống KSNB và các sách kiểm toán tài chính của các trường đại học trong cả nước [73]. Những tài liệu trên cũng chỉ cung cấp và chỉ rõ hơn lý luận về kiểm soát nội bộ, cũng không vận dụng nó trong một tổ chức cụ thể.
Thứ ba, sự ra đời và phát triển lý luận về hệ thống KSNB ở Việt Nam gắn liền với sự ra đời và phát triển của hoạt động kiểm toán và nhu cầu quản trị của các doanh nghiệp. Năm 1980, khi Nhà nước từng bước chuyển nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt là khi xuất hiện các nhà đầu tư nước ngoài, các công ty cổ phần xuất hiện với nhiều hình thức sở hữu, quyền quản lý tài sản tách rời quyền sở hữu tài sản, nhu cầu minh bạch thông tin của các nhà quản lý, các nhà đầu tư, nhu cầu được cung cấp thông tin chính xác về báo cáo tài chính đòi hỏi phải có hoạt động kiểm toán, lúc này hoạt động kiểm toán mới được chú trọng, sự thành lập của Công ty kiểm toán đầu tiên của Việt Nam (VACO) vào tháng 5/1991 đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với công tác kiểm tra kế toán ở Việt Nam. Sau đó, với sự thành lập của nhiều công ty kiểm toán khác như các công ty hợp danh, công ty liên doanh, các công ty kiểm toán quốc tế tại Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho kiểm toán Việt Nam phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới sự ra đời hàng loạt các công ty kiểm toán và Kiểm toán Nhà nước, dẫn đến yêu cầu về đánh giá hệ thống KSNB của các doanh nghiệp. Do đó đòi hỏi phải có một nền tảng lý thuyết căn bản về KSNB. Trước tình hình đó: Tháng1/1994, Chính phủ ban hành Quy chế kiểm toán độc lập. Tháng 7/1994 thành lập Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ. Tháng 10/1994, Bộ Tài chính ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Năm 1998, Quyết định số 03/1998/QĐ_NHNN ngày 3/1/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về Quy chế kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Năm 1998, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN ngày 3/1/1998 về Quy chế kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Tháng 9/1999, Bộ Tài chính ban hành 4 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA) đầu tiên, tiếp theo từ năm 2000 đến năm 2005 ban hành 26 chuẩn mực kiểm toán và ban hành Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC ngày 1/12/2005 về ban hành công bố chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Theo chuẩn mực VSA 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” Bộ Tài chính đã đưa ra định nghĩa “Hệ
5
thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị”. Mới đây theo thông tư 214 ngày 06 tháng 12 năm 2012 Bộ Tài Chính đã ban hành và chuẩn hoá lại 37 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam theo quan điểm quốc tế. Theo đó với chuẩn mực VSA 315 “Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị kiểm toán và môi trường của đơn vị” thì KSNB được định nghĩa là qui trình do Ban quản trị, BGĐ và các cá nhân khác trong đơn vị thiết kế, thực hiện và duy trì để tạo ra một sự đảm bảo hợp lý và khả năng đạt được mục tiêu của đơn vị trong việc đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính, đảm bảo hiệu quả, hiệu suất hoạt động, tuân thủ pháp luật và các qui định có liên quan. Thuật ngữ “kiểm soát” được hiểu là bất cứ khía cạnh nào của một hoặc nhiều thành phần của kiểm soát nội bộ [108]. Luật kiểm toán nhà nước 2005 quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức quản lý sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước đối với tính chính xác, trung thực của báo cáo tài chính, bao gồm cả việc căn cứ vào quy định của pháp luật, xây dựng, duy trì hoạt động hệ thống KSNB thích hợp và có hiệu quả.
Nhìn chung, ở Việt Nam, lý luận về kiểm soát nội bộ còn sơ sài và chưa được coi trọng, kiểm soát nội bộ chủ yếu vẫn chỉ được xem là công cụ quan trọng hỗ trợ kiểm toán viên độc lập thực hiện kiểm toán. Chức năng kiểm soát nội bộ chưa thực sự tách rời hoàn toàn khỏi kiểm toán nội bộ và kiểm soát nội bộ chưa được xem là công cụ hữu hiệu giúp ích cho quá trình quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư, Tại Việt Nam nghiên cứu ứng dụng hệ thống KSNB trong một đơn vị cụ thể ở các ngành, các lĩnh vực cũng được nhiều tác giả quan tâm ở các luận văn cao học. Kết quả nghiên cứu của luận văn đều hệ thống hóa được các nguyên lý chung về hệ thống KSNB, chưa có tác giả nào bổ sung cho lý luận mới về hệ thống KSNB, chưa có tác giả nào đưa ra được tiêu chí để đo lường và đánh giá HTKSNB hoạt động đạt hiệu quả như mong muốn và phân tích được mối quan hệ giữa nhân tố tác động đến việc thiết kế và vận hành của hệ thống KSNB. Điểm riêng của các nghiên cứu này là quá trình phân tích và đánh giá thực trạng hệ thống KSNB của từng đơn vị cụ thể để đưa ra giải pháp hoàn thiện hệ thống KSNB. Có thể kể đến các luận văn thạc sỹ:
Thuộc lĩnh vực ngân hàng có: Tác giả Trần Thị Minh Thư (2001) về “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổng công ty nhà nước Việt Nam” [79]. Tác giả Dương Thị Thu Trang (2006) về “Hoàn thiện hệ thống KSNB trong Công ty tài chính công nghiệp Tầu thủy” [81]. Tác giả Khúc Thị Huyền Trang (2008) về “Hoàn thiện hệ thống KSNB với việc tăng cường quản lý tài chính tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Long Biên” [82]... Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt, với chức năng tạo tiền, thanh toán và tín dụng. Vì vậy việc xây dựng mô hình tổ chức hệ thống KSNB phù hợp để đạt được mục tiêu của tổ chức là vô cùng quan trọng. Các nghiên cứu đã khái quát được đặc điểm của hệ ngân hàng có ảnh hưởng tới thiết kế và vận hành hệ thống KSNB, đánh giá được thực trạng hệ thống KSNB tại các ngân hàng, từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị và hoàn thiện. Một số luận văn cũng chỉ giải quyết được hoàn thiện hệ thống KSNB về hoạt động tín dụng tại ngân hàng.
6
Thuộc các công ty cổ phần có các tác giả nghiên cứu: Tác giả Đặng Thanh Tùng (2006) về “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với tăng cường quản lý tài chính tại Công ty cổ phần viễn thông tin học Bưu điện (CT - IN) [47]. Tác giả Đặng Thị Liên (2007) về Hoàn thiện tổ chức hệ thống KSNB tại Công ty TNHH PRIMEGROUP” [55]. Tác giả Chu Thị Thu Thủy (2007) về “Hoàn thiện hệ thống KSNB về chi phí sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần kết cấu thép cơ khí” [75]. Tác giả Lê Thị Thanh Nội (2007) về “Hoàn thiện hệ thống KSNB tại Công ty cổ phần Thạch bàn -VIGLACERA” [80]... Các công ty cổ phần hoạt động dưới sự góp vốn của nhiều đơn vị thành viên, sự sung đột về lợi ích của từng đơn vị thành viên là tất yếu, do vậy cần phải thiết kế một hệ thống KSNB đủ mạnh và minh bạch là rất cần thiết, đảm bảo tổ chức hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục tiêu đề ra. Các nghiên cứu này mới chỉ đã đánh giá được thực trạng hệ thống KSNB của từng quá trình như tiêu thụ, chi phí sản xuất và tính giá thành hay hoạt động tài chính trong doanh nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện mà chưa đánh giá và hoàn thiện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Một số luận văn nghiên cứu hệ thống KSNB trong các công ty vừa và nhỏ nên việc hình thành hệ thống KSNB còn chưa rõ nét thậm chí còn chưa có.
Thứ năm, một số các tác giả cũng đề cập tới hệ thống KSNB trên góc độ xây dựng hệ thống KSNB như: Tác giả Ngô Trí Tuệ và cộng sự (2004) với đề tài “Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam” đề tài nghiên cứu đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp để từ đó thiết kế và vận hành hệ thống KSNB phù hợp với doanh nghiệp [74]. Tác giả Lê Thị Minh Hồng (2002) với đề tài “Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ trong các khách sạn” đã đề cập tới tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn [36]
Thứ sáu, trong thời gian gần đây đã có một số nghiên cứu thuộc Luận án tiến sỹ về hệ thống KSNB nhưng không phải trong một doanh nghiệp cụ thể mà phạm vi nghiên cứu rộng hơn trong một ngành, bộ hoặc một tổng công ty. Với việc nghiên cứu này các nghiên cứu đã lập phiếu khảo sát các đơn vị để đánh giá được thực trạng hệ thống KSNB trong các đơn vị thành viên, tìm ra các điểm giống nhau và khác nhau trong việc thiết kế và vận hành hệ thống KSNB để từ đó hoàn thiện cho cả hệ thống. Có thể kể đến:
Tác giả Phạm Bính Ngọ (2011) với Luận án tiễn sĩ về “Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc Phòng” [56]. Đề tài đã nêu được đặc điểm của các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ quốc phòng với tổ chức KSNB (phân theo từng cấp từ bộ đến các sư đoàn và đơn vị tương đương với các các đặc điểm về tài chính: là đơn vị quản lý và sử dụng ngân sách đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, tài chính chịu tác động của các qui luật kinh tế và qui luật chiến tranh và được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa phân cấp theo ngành với phân cấp theo đơn vị sử dụng ở từng cấp), đã tìm hiểu và đúc rút được các kinh nghiệm quốc tế về tổ chức kiểm soát ngân sách trong các đơn vị quân đội (kinh nghiệm tại các quốc gia như: Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, Ba Lan, Hàn Quốc). Đề tài cũng nêu ra một số hạn chế (Nhận thức về hệ thống KSNB của một số lãnh đạo chưa đầy đủ, phân cấp quản lý chưa đi đôi với quyền hạn và trách nhiệm, đội ngũ cán bộ có trình độ không đồng đều, hoạt động kiểm soát thiếu sự đồng bộ, hệ thống định mức không đầy đủ) và nguyên nhân của hạn chế về hệ
7
thống KSNB (cơ sở pháp lý về tổ chức hoạt động của hệ thống KSNB chưa hình thành đồng bộ, trình độ hiểu biết hệ thống KSNB còn hạn chế, công tác chỉ đạo và kiểm tra còn thiếu cụ thể và chưa rõ ràng) trong các đơn vị dự toán trực thuộc bộ quốc phòng, từ đó vận dụng đưa ra một số giải pháp hoàn thiện (xác định mô hình tổ chức hệ thống KSNB, tạo dựng môi trường kiểm soát khoa học và có hiệu lực, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra tài chính, hoàn thiện hệ thống thông tin và thủ tục kiểm soát). Tuy nhiên đề tài còn chưa phân tích được mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến hệ thống KSNB, chưa xây dựng được mô hình với mối liên hệ giữa các biến phụ thuộc và biến độc lập để tìm ra được qui luật của sự tác động đó, từ đó thiết kế hệ thống KSNB cho hiệu quả. Đề tài cũng chưa xây dựng được các thước đo để đánh giá hệ thống KSNB của đơn vị từ đó đưa ra nhận định về sự yếu kém của hệ thống KSNB còn mang tính định tính
Tác giả Nguyễn Thu Hoài (2011) về “Hoàn thiện hệ thống KSNB trong các doanh nghiệp sản xuất xi măng thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam” [38] điểm mới của đề tài này đã đề cập tới hệ thống KSNB trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin, đề tài cũng nêu ra được đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp sản xuất xi măng thuộc Tổng công ty xi măng, từ đó đánh giá được thực trạng và đưa ra giải pháp hoàn thiện (ứng dụng ERP, hệ thống đánh giá rủi ro, môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, thủ tục kiểm soát). Tuy nhiên đề tài cũng chỉ nghiên cứu được những vấn đề thuộc hệ thống KSNB của các doanh nghiệp thuộc tổng công ty xi măng Việt nam chưa khái quát được hướng nghiên cứu trong toàn ngành. Khi đánh giá thực trạng mới chỉ ra được những hạn chế của kiểm soát trên quan điểm định tính, chưa đánh giá được hệ thống KSNB trên quan điểm định lượng để đề xuất các biện pháp hoàn thiện.
Tác giả Bùi Thị Minh Hải (2012) về “Hoàn thiện hệ thống KSNB trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam” [32], Luận án cũng đã khái quát được lý luận chung về hệ thống KSNB và cũng đúc rút được một số kinh nghiệm quốc tế về tổ chức hệ thống KSNB trong các doanh nghiệp may mặc. Tại Chương 2 Tác giả cũng đã đánh giá được thực trạng hệ thống KSNB trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam, đã lập được mẫu bảng câu hỏi điều tra các doanh nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện. Tại chương 3 Luận án đã đưa ra được sự cần thiết và các giải pháp hoàn thiện hệ thống kiếm soát nội bộ tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong phần lý luận Luận án cũng chưa phân biệt được kiểm soát, kiểm soát nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ, chưa nghiên cứu rõ hệ thống KSNB trên quan điểm hiện đại là hỗ trợ cho tổ chức để tạo ra giá trị gia tăng cho tổ chức đó.
Thứ bảy, Tổ chức hoạt động kinh doanh dưới mô hình tập đoàn còn là vấn đề mới mẻ, trong quá trình hoạt động hơn 10 năm qua còn bộc lộ khá nhiều mặt hạn chế. Trong thời gian qua có các tác giả nghiên cứu về hoạt động kinh doanh mô hình hoạt động tập đoàn nhưng trên những khía cạnh khác nhau. Tác giả Nguyễn Đình Phan (1996) với đề tài “Thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam” [57], với nội dung chủ yếu là trình bày những lý luận chung về tập đoàn, đưa ra những nhận xét về mô hình hoạt động này, đồng thời đưa ra các khuyến nghị nhằm đảm bảo cho mô hình này hoạt động hiệu quả ở Việt Nam. Ngoài ra tác giả còn giới thiệu một số mô hình tập đoàn kinh doanh ở một số nước thuộc các lĩnh vực trên thế giới và rút ra những bài học kinh nghiệm; Tác giả Vũ Huy Từ (2002) về “Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hóa, hiện đại
8
hóa” nội dung đề cập tới lý luận và kinh nghiệm thế giới về tập đoàn kinh tế, đánh giá thực trạng các tổng công ty Nhà nước, đồng thời đề ra mô hình Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam và giải pháp quản lý vĩ mô của Nhà nước [85]; Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (8/2003) về “Tập đoàn kinh doanh – nhu cầu hình thành và phát triển ở Việt Nam” [92] nội dung làm sáng tỏ ý nghĩa và lý do việc thành lập tập đoàn, kiến nghị cơ chế, chính sách cho sự phát triển của tập đoàn Việt Nam; Hội thảo khoa học (9/2003) do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức với nội chung bàn về sự hình thành của các tập đoàn Trung Quốc trong quá trình đổi mới nền kinh tế [92], từ đó rút ra được kinh nghiệm và bài học ở Việt Nam; Hội thảo khoa học do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tổ chức (12/2003) nội dung là lấy ý kiến về nội dung đề án hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế trên cơ sở các Tổng công ty Nhà nước; Tác giả Trần Tiến Cường và các tác giả (2005) về “Tập đoàn kinh tế – lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt Nam” nội dung đề cập đánh giá cơ hội và thách thức đối với các Tổng công ty Nhà nước khi phát triển theo xu thế tập đoàn [19]. Tác giả Lê Thị Hồng Thúy về “Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn” đề tài cũng đề cập tới khái quát các tập đoàn kinh tế, làm rõ ý nghĩa và nội dung kiểm toán nội bộ trong tập đoàn, nêu được nội dung tổ chức kiểm toán nội bộ trong tập đoàn kinh tế, thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn từ đó đề ra được các biện pháp giải quyết. Các công trình này đã làm rõ được khái niệm, phân loại tập đoàn, kinh nghiệm tổ chức và xây dựng của một số tập đoàn trên thế giới, các chính sách vĩ mô cho sự phát triển của Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, đưa ra được phương hướng và các giải pháp về cơ chế, tổ chức, chính sách hỗ trợ để hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam dựa trên sự xắp xếp và tổ chức các Tổng công ty Nhà nước. Đã đề cập đến kiểm toán nội bộ tại tập đoàn. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào đề cập đến kiểm soát nội bộ tại tập đoàn cũng như xây dựng nó trở thành hệ thống. Chưa có nghiên cứu nào chỉ rõ được đặc điểm HTKSNB tại tập đoàn có gì khác với đặc điểm HTKSNB đối với các doanh nghiệp thông thường
Như vậy, theo hiểu biết của tác giả chưa có một nghiên cứu nào khái quát cả về lý luận và thực tiễn về hệ thống kiểm soát nội bộ tại các tập đoàn kinh tế nói chung cũng như Tập đoàn Hóa chất nói riêng. Vì lý do đó Luận án tập trung vào nghiên cứu lý luận về hệ thống KSNB trong các đơn vị hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế, kinh nghiệm quốc tế về hệ thống KSNB của các tập đoàn trên thế giới, thực trạng hệ thống KSNB bộ tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện cho hệ thống KSNB cho Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
3. Mục tiêu và ý nghĩa nghiên cứu của luận án
- Mục tiêu nghiên cứu của Luận án
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phát triển lý luận về HTKSNB trong Tập đoàn kinh tế. Từ đó đánh giá thực trạng HTKSNB tại Tập đoàn Hoá chất Việt Nam để đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện HTKSNB phù hợp với đặc thù hoạt động của Tập đoàn.
- Ý nghĩa nghiên cứu của Luận án
Về lý luận: Luận án đã tổng hợp toàn diện các quan điểm khác nhau về HTKSNB, đồng thời chỉ ra được các đặc điểm các tập đoàn nói chung và Tập đoàn Hóa