Đổi Mới Cơ Chế Tctc Phải Gắn Với Thúc Đẩy Tạo Ra Nhiều Cơ Hội Cho Người Học.


cấp độ vĩ mô, Nhà nước cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin truyền thông để thay đổi nhận thức của toàn thể cộng đồng là đầu tư GDĐH là đầu tư cho sự phát triển.

4.1.6. Đổi mới cơ chế TCTC phải gắn với thúc đẩy tạo ra nhiều cơ hội cho người học.

Đổi mới cơ chế TCTC các trường ĐHCL phải theo hướng có nhiều con đường học khác nhau cho người học. Ví dụ như mô hình của Úc được xây dựng giữa các bậc học có sự liên thông theo chiều dọc, chiều ngang, thậm chí liên thông chéo với nhiều cách thức khác nhau. Đào tạo từ trình độ công nhân cho phép học thẳng lên trình độ tiến sĩ. Mặc dù tỷ lệ này chỉ chiếm vài %, nhưng đây cũng là cách thức để giải phóng nhu cầu cá nhân, khuyến khích người học tự lựa chọn mô hình, con đường đi thích hợp với khả năng, điều kiện của riêng mình.

Xuất phát từ những lý do trên, đòi hỏi cơ chế TCTC trường ĐHCL phải đảm bảo tính mềm dẻo, linh hoạt trong cách thu, chi; mức thu học phí cho các đối tượng không bị ràng buộc, không bị khống chế theo trần mà nước ta đang thực hiện.

4.1.7. Đổi mới cơ chế TCTC cần tiến hành đồng bộ, song hành với đổi mới các qui trình khác để tạo ra tính hiệu quả, tính khả thi.

Một là, gắn TCTC với tự chủ đại học và tự chịu trách nhiệm, có như vậy mới tạo môi trường, điều kiện để các trường chủ động giải trình trách nhiệm về chất lượng đào tạo, NCKH trong quá trình tìm kiếm, khai thác nguồn tài chính.

Hai là, công tác quản lý, tuyển dụng, nâng bậc lương của CBVC... nên giao hoàn toàn cho nhà trường thực hiện; khoa chuyên môn có thể ký hợp đồng, gửi giấy mời giảng, trả tiền công cho mỗi giảng viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

Ba là, thay đổi cơ chế quản lý NCKH, các trường có quyền lựa chọn, tự chịu trách nhiệm về lĩnh vực, đề tài…; được tự do lựa chọn hợp đồng NCKH, chuyển giao công nghệ trên nguyên tắc hiệu quả.

Bốn là, trong hợp tác quốc tế, giao quyền chủ động cho các trường. Chẳng hạn nhà trường và khoa chuyên môn được phép gửi thư mời trực tiếp tới giáo sư, nhà khoa học nước ngoài đến làm việc và trả lương... không cần qua nhiều cấp quản lý xét duyệt, kiểm soát, tránh làm cản trở việc giao lưu, học hỏi và tự do học thuật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 196 trang tài liệu này.


Năm là, cần đổi mới cơ chế quản lý đầu tư XDCB nên phân quyền cho các trường được xây dựng qui hoạch tổng thể và phê duyệt các dự án đầu tư theo yêu cầu nhiệm vụ phát triển nhà trường trên cơ sở chấp hành pháp luật của Nhà nước.

Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường Đại học công lập ở Việt Nam - 16

4.1.8. Đẩy mạnh việc xây dựng, thành lập doanh nghiệp và tiến hành cổ phần hóa một số bộ phận phục vụ trong nhà trường.

Xây dựng, thành lập DN là nhằm đổi mới chức năng, nhiệm vụ của trường ĐHCL, đó là vừa ĐT, vừa NCKH và tham gia phục vụ SXKD. Thành lập các DN sẽ là cầu nối thúc đẩy việc chuyển giao các công trình nghiên cứu vào cuộc sống, nó làm cho các trường trở nên năng động hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu của XH.

Ở nước ngoài, việc thành lập DN trong nhà trường là một tất yếu nhưng ở nước ta nó vẫn là một khái niệm xa lạ. Vì vậy, về phía các trường cần mạnh dạnh thành lập DN với nhiệm vụ tư vấn, chuyển giao KHCN, SXKD các sản phẩm phục vụ đời sống XH. Về phía Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ như miễn, giảm thuế cho các DN trong nhà trường. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các trường tập trung vào nhiệm vụ chính là đào tạo, NCKH thì Nhà nước nên cho phép cổ phần hoá một số khâu cung cấp dịch vụ như bộ phận ký túc xá, in ấn, thư viện, đào tạo ngắn hạn... trong đó, CBVC được ưu tiên mua cổ phần... nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản lý thúc đẩy CBVC tận tuỵ với sự phát triển của nhà trường.

4.2. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế TCTC trường ĐHCL Việt Nam

Để phát huy những kết quả đã đạt được và tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của Nghị định 43/CP, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách tài chính theo hướng giao quyền TCTC ở mức độ cao cho các trường ĐHCL. Mỗi trường cần nhận thức đầy đủ và quyết tâm thực hiện cơ chế TCTC với các giải pháp cụ thể để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu lực, linh hoạt và sự đồng thuận trong quá trình phát triển, hội nhập với các trường ĐH trong khu vực và quốc tế.

4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu lực của cơ chế TCTC

Nghị định 43/CP đã tạo ra sự công khai, minh bạch hóa các hoạt động của các trường. Tuy nhiên, để khắc phục những vấn đề còn tồn tại, bất cập, nâng cao tính hiệu lực của cơ chế trong thực tế thì đòi hỏi Nhà nước và mỗi trường cần giải quyết tốt các vấn đề của riêng mình.


4.2.1.1. Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan chức năng (Bộ Tài chính, Bộ GD&ĐT…) rà soát, xây dựng, ban hành các văn bản pháp lý giao quyền TCTC.

Văn bản ban hành của các Bộ, ngành, cơ quan chủ quản cần đảm bảo nguyên tắc tăng thời gian hiệu lực; giảm sự chồng chéo; đơn giản hóa thủ tục hành chính, chế độ chứng từ kế toán, có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy TCTC của các trường.

Một là, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực cần chủ trì phối hợp với Bộ liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm:

(1) Ban hành các văn bản qui định tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành, chất lượng và kết quả hoạt động các trường được giao quyền tự chủ. Hướng dẫn thống nhất công tác quản lý thu chi của các chương trình đào tạo chất lượng cao, chương trình liên doanh, liên kết, hợp tác với các cơ sở nước ngoài để thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo đã qui định tại khoản 6 điều 65 của Luật GDĐH.

(2) Tăng cường phân cấp quản lý đầu tư XDCB, mua sắm tài sản cho các trường tự thực hiện với giá trị lớn hơn tương ứng với thời giá. Ví dụ, các trường được tự chủ phê duyệt kế hoạch, sử dụng kinh phí từ các nguồn thu hợp pháp, được quyết định đối với các dự án đầu tư CSVC có giá trị dưới 20 tỷ đồng [36, tr 94].

(3) Đơn giản hóa qui trình, thủ tục, các bước thực hiện đầu tư XDCB, mua sắm tài sản. Ví dụ, trong Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn việc mua sắm vật tư… nên bỏ qui định lấy 3 báo giá khi mua sắm có giá trị dưới 20 triệu đồng, bỏ bước ra quyết định chọn đơn vị cung cấp hàng hóa mà chỉ cần có biên bản chọn giá là đủ. Chỉ thực hiện hình thức đấu thầu khi mua sắm hàng hóa có giá trị trên 500 triệu đồng thay cho mức 100 triệu đồng như hiện nay.

(4) Cho phép các trường dùng nguồn học phí, nguồn tiết kiệm chi thường xuyên trong năm báo cáo để đầu tư XDCB, mua TSCĐ.

Hai là, để Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước số 09/2008/QH12, ngày 03/6/2008; Nghị định 52/2009/NĐ-CP, ngày 03/6/2009 và Thông tư 12/2012/TT- BTC, ngày 06/02/2012 ứng dụng trong thực tiễn tại các trường ĐHCL thì Bộ Tài chính cần ban hành ngay mẫu hồ sơ, nội dung các văn bản đề nghị, đề án sử dụng tài sản… đối với đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện được Nhà nước xác định


giá trị tài sản để giao quản lý theo cơ chế giao vốn cho DN. Có như vậy, mới tạo điều kiện cho các trường chủ động hoàn thành thủ tục hồ sơ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhanh chóng sử dụng hiệu quả đất đai, tài sản hiện có, đồng thời khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, kiều bào Việt Nam liên doanh, liên kết đào tạo với các trường, qua đó thu hút các kênh đầu tư mới để các trường chủ động tham gia hội nhập quốc tế về GDĐH. Ngoài ra, đối với tài sản được đầu tư từ nguồn vốn tự có, hoặc có trên 50% nguồn vốn tự có thì các trường được quản lý và sử dụng theo qui định tại qui chế tài chính nội bộ của nhà trường.

Ba là, Bộ GD&ĐT cần rà soát, điều chỉnh tăng tỷ lệ SV/GV cho phù hợp tình hình thực tế, chưa nên giữ tỷ lệ tối đa là 25/1 mà cần có lộ trình phù hợp để các trường có đủ nguồn tài chính chi trả cho các hoạt động; nâng định mức, tiêu chuẩn chế độ thanh toán ngoài giờ lên 300 giờ thay cho việc GV chỉ được vượt 200 giờ chuẩn/năm như hiện nay. Bởi vì, mục tiêu của cơ chế TCTC là để đơn vị tự cân đối nhu cầu nhân sự nhằm nâng cao hiệu suất lao động, giảm biên chế, giảm chi phí, tăng thu nhập cho CBVC. Chính vì vậy, việc nâng các định mức trên là nhằm giảm số lượng phải mời GV thỉnh giảng. Việc mời GV thỉnh giảng rất bị động, nó phụ thuộc vào kế hoạch giảng dạy, làm việc của trường, của người được mời. Mặt khác, chi phí mời giảng cao hơn rất nhiều so với chi phí trả vượt giờ cho GV cơ hữu của nhà trường vì phải trả thêm tiền công tác phí như tiền ăn ở, đi lại. Ngoài ra, việc nâng định mức trên cũng là cơ hội nâng cao thu nhập cho giảng viên không phải đi giảng dạy thêm ở bên ngoài. Vì vậy, Bộ GD&ĐT cần xây dựng, ban hành các tiêu chí xác định chỉ tiêu tuyển sinh theo một lộ trình phù hợp với việc giao quyền tự chủ, TCTC cho các trường ĐHCL. Điều này nhằm thực hiện được điều 34 của Luật GDĐH và cũng tránh xảy ra tình trạng các tiêu chí đưa ra chỉ là hình thức, hầu hết các trường đều chưa thực hiện được về số lượng SV/GV; diện tích phòng học, đất đai/SV; trang thiết bị/SV, GV… theo Quyết định 693/QĐ-BGDĐT hiện nay.

Bộ GD&ĐT cùng các địa phương cần rà soát, lập danh sách, phê duyệt qui hoạch chi tiết về vị trí, bố trí quỹ đất và phương án tài chính để di dời các trường ra khỏi trung tâm thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; đảm bảo tính khả thi,


tránh làm xáo trộn về tâm lý, sự hoang mang cho cả nhà trường và người học. Giải pháp cho vấn đề này là Nhà nước và các địa phương cung cấp đất sạch, đã đền bù giải phóng mặt bằng; kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình nhà học, xưởng thực hành, ký túc xá… được nhà nước ứng trước bằng giá trị thị trường của cơ sở cũ thì các trường mới có đủ nguồn tài chính để đầu tư tại địa điểm mới.

Bốn là, Bộ Tài chính và Bộ GD&ĐT cần tổng kết các bài học kinh nghiệm về mô hình hoạt động của những trường được giao tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên; đánh giá kết quả thực hiện Nghị định 43/CP. Để có luận cứ khoa học, từ đó rút kinh nghiệm, đề xuất giải pháp hoàn chỉnh các qui định trong cơ chế TCTC phù hợp với thực tiễn, tiến tới áp dụng đại trà cho các trường. Chẳng hạn, sửa đổi Nghị định 43/CP theo nguyên tắc những trường đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên, đảm bảo chất lượng thì được giao quyền tự chủ trong việc quyết định chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo, hợp tác quốc tế, cho phép thu mức học phí đủ bù đắp chi phí đào tạo, được quyết định chế độ chi trả tiền lương, tiền công cho cán bộ, giảng viên, nhân viên theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Bắt buộc các trường phải công khai, chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội về chất lượng đào tạo và phải minh bạch hóa các khoản thu, chi tài chính.

Năm là, Chính phủ và các bộ ngành có liên quan cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật GDĐH; đặc biệt là điều 32 về quyền tự chủ của cơ sở GDĐH. Có như vậy, mới tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các trường được tự do phát huy sáng kiến; tự chủ thu, chi dựa trên các luật lệ, qui tắc chung của luật pháp. Chính phủ cần ban hành các văn bản khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường; qui định trách nhiệm, nghĩa vụ hỗ trợ, đóng góp tài chính từ các DN sử dụng sản phẩm đào tạo của nhà trường...

Sáu là, Nhà nước nên giao cho các trường tự quyết định thời điểm, mức chi thu nhập cho CBVC. Có nghĩa là trong cơ chế TCTC, Nhà nước cần bãi bỏ qui định hàng tháng chỉ được chi 60% phần chênh lệch thu lớn chi tiết kiệm được, phần còn lại chờ cấp trên phê duyệt quyết toán; bãi bỏ qui định mức chi tối đa không quá 2 tháng lương đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động... nhằm khuyến


khích mọi cá nhân, tập thể không ngừng nỗ lực tiết kiệm, chống lãng phí, tìm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, nó tạo ra sự ổn định thu nhập hàng tháng đảm bảo mức sống và sự yên tâm công tác của CBVC.

Bảy là, Nhà nước cần có cơ chế ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho các trường ở các vùng miền khó khăn; đào tạo ngành nghề đặc thù, khó thu hút SV, khó có cơ hội tham gia vào sản xuất, chuyển giao công nghệ như đào tạo khoa học cơ bản; sư phạm; ngành nghề truyền thống; văn hóa nghệ thuật (lớp học có tính cá nhân cần 2÷3 GV/SV trong tiết học) thì NS đầu tư lớn hơn và tăng đóng góp từ người học.

4.2.1.2. Nâng cao tính công khai, minh bạch hóa của cơ chế TCTC trong các hoạt động nội bộ nhà trường.

Việc công khai hóa, minh bạch hóa lĩnh vực tài chính sẽ tạo ra sức ép; buộc cá nhân, tập thể và các cấp quản lý phải tự giác tham gia vào quá trình đổi mới nhà trường theo hướng hiệu quả, xây dựng uy tín, thương hiệu trước người học và XH.

Công cụ hỗ trợ cho sự công khai, minh bạch hóa là các trường nên sử dụng ISO, đặc biệt là đưa tiến bộ công nghệ thông tin, nối mạng vào quản lý tài chính, quản lý đào tạo, quản lý người học, quản lý CBVC. Bởi vì, công nghệ thông tin đảm bảo tính tiện ích, đem lại những lợi ích to lớn cho mỗi cá nhân, mỗi tổ chức:

Thứ nhất, làm giảm chi phí hành chính. Vì nó có thể tích hợp, chia sẻ được nhiều dữ liệu dẫn tới cắt giảm được thời gian, chi phí thu thập, xử lý thông tin. Đối với nhà trường nó giúp cắt giảm khối lượng thời gian, công sức trong sắp xếp thời khóa biểu, phân công giảng dạy, thanh toán hợp đồng, thu học phí, phân loại SV…

Thứ hai, cho phép mỗi cá nhân, tổ chức phản ứng nhanh, chính xác với những thay đổi của môi trường vì nó xóa đi khoảng cách không gian, thời gian để người sử dụng tiếp cận nhanh, trực tiếp công việc.

Trên thực tế, mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp qui (như Luật Giao dịch điện tử năm 2005; Luật Công nghệ thông tin năm 2006; Nghị định 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước; Quyết định 1605/2010/QĐ-TTg về ứng dụng công nghệ thông tin giai đoạn 2011÷2015 nhưng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, quản lý tài


chính của các trường vẫn còn bất cập. Bởi vì, các trường vẫn cho rằng tài chính là vấn đề nhạy cảm, bí mật, chỉ một số ít người được tiếp cận nên không cần ứng dụng công nghệ thông tin để xử lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin của các trường chưa đồng bộ, chưa kết nối giữa các bộ phận liên quan (ví dụ, các phần mềm sử dụng của phòng, khoa, đơn vị này không đầy đủ thông tin, dữ liệu cho đơn vị khác dẫn tới các dữ liệu không thể dùng chung được. Ở nhiều trường đang có tình trạng hệ thống máy tính, các phần mềm sử dụng tại phòng tài chính kế toán không kết nối, không tương thích và không liên thông với các đơn vị khác làm cho việc xử lý thông tin kém hiệu quả, thiếu chính xác... gây khó khăn cho việc thực hiện các mô hình đào tạo theo nhu cầu của người học, nhu cầu của XH). Mặt khac do trình độ công nghệ thông tin của một số cán bộ kế toán, tài chính của nhiều trường còn hạn chế, dẫn tới ngại đưa công nghệ thông tin vào sử dụng, đặc biệt là áp dụng trong một phạm vi rộng. Vì sợ không bảo mật được thông tin hoặc việc đặt bài toán cho nhà sản xuất phần mềm chưa đủ dữ liệu, phần hành chưa phù hợp với tính đặc thù của nhà trường như thiếu chức năng, thiếu tính hệ thống…

4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu quả của cơ chế TCTC

4.2.2.1. Nhà nước cần ban hành văn bản quy định bắt buộc phân tích tài chính, phân tích các hoạt động của nhà trường theo các tiêu chí xác định.

Bởi vì, lợi ích của phân tích tài chính, phân tích hoạt động là làm rõ được trách nhiệm giải trình, tính hiệu quả của việc giao quyền TCTC cho các trường. Kết quả của nó sẽ cung cấp thông tin cho hoạt động giám sát của các cơ quan chức năng đối với nhà trường một cách hiệu quả hơn. Đồng thời, nó còn hỗ trợ cho hoạt động lên kế hoạch, xây dựng chính sách và ra quyết định của nhà trường. Chẳng hạn, phải tăng học phí đến mức nào để có thu nhập phù hợp với mục tiêu nhà trường đã xác định (như trả lương GV; điều kiện CSVC, thư viện, giáo trình giảng dạy, học tập…).

Phân tích tài chính sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện hơn về chi phí, năng suất, hiệu quả chứa đựng trong các hoạt động quá khứ và hiện tại của nhà trường. Từ đó, các nhà quản lý có thể phát hiện những vấn đề còn tồn tại để có giải pháp khắc phục. Vì vậy, Nhà nước cần qui định các trường phải nộp báo cáo định


kỳ theo quý, 6 tháng, 1 năm về phân tích tài chính để làm cơ sở đánh giá hiệu quả của việc phân bổ, sử dụng các nguồn lực tài chính trong các trường như thế nào? Chẳng hạn, qua cơ cấu nguồn thu sẽ cho chúng ta biết nhà trường đang hoạt động nhờ vào nguồn lực tài chính nào; Nhà nước có cần tăng cường sự hỗ trợ hay không? Nếu Nhà nước hỗ trợ thì nên hỗ trợ như thế nào, bằng việc ban hành chính sách hay cung cấp trực tiếp thông qua việc tăng NSNN cấp? Kết cấu các khoản chi sẽ cho chúng ta biết tính hiệu quả của việc quản lý ngân sách công trong nhà trường, từ đó Nhà nước có cơ chế giám sát để tăng sự tiết kiệm, chống lãng phí và có nên tăng quyền TCTC cho các trường hay không? Nếu giao thêm quyền TCTC thì nên giao ở lĩnh vực, phạm vi nào cho phù hợp với năng lực quản lý của từng nhà trường.

Tóm lại, phân tích tài chính, phân tích các hoạt động của trường ĐHCL là để Nhà nước quản lý, giám sát sử dụng nguồn lực NS một cách hiệu quả, đúng mục tiêu hơn. Ngoài ra, nó giúp cho các trường trong việc xây dựng chính sách, xây dựng cơ cấu và tỷ lệ học phí trong nguồn thu, lên kế hoạch phân bổ nguồn lực hợp lý, quản lý các khâu nhân sự, CSVC tốt hơn.

4.2.2.2. Các trường cần chủ động đẩy mạnh sử dụng cơ chế TCTC trong khai thác, mở rộng, nâng cao chất lượng nguồn thu; tăng cường hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn tài chính. Để tạo ra nguồn lực tài chính cho hoạt động và để tăng khả năng TCTC thì

các trường cần giải quyết tốt các vấn đề sau:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và chuyển giao KHCN, tăng cường gắn kết giữa nhà trường với doanh nghiệp.

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế để tạo ra uy tín, thu hút được người học, các trường cần xây dựng và mở rộng những chương trình đào tạo có tính chất quốc tế. Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập theo hướng hiện đại hoá, lấy SV làm trung tâm, khuyến khích hoạt động giao lưu quốc tế của GV và SV. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với những trường ĐH danh tiếng trong khu vực và trên thế giới. Mở rộng các hoạt động dịch vụ, hoạt động liên doanh liên kết với các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm thu hút, huy động tối đa các nguồn về nhân lực, về tài chính... phục vụ công tác đào tạo.

Xem tất cả 196 trang.

Ngày đăng: 30/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí