Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành - 2

pháp quyền Việt Nam; tìm ra những tiến bộ, hạn chế, bất cập của Hiến pháp Việt Nam hiện hành;

- Đưa ra kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện các qui định của Hiến pháp Việt Nam về các quyền dân sự phù hợp với giá trị quyền con người của Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong giai đoạn mới.

3. Tính mới của đề tài và ý nghĩa của luận văn

3.1. Tính mới:

- Nêu và phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của Hiến pháp về các quyền dân sự;

- Đánh giá cách tiếp cận và phân tích nội dung các quy định về các quyền dân sự trong Hiến pháp và sự tương thích với luật nhân quyền quốc tế;

- Nêu và phân tích, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nội dung các quy định pháp luật về các quyền dân sự.

3.2. Ý nghĩa của luận văn:

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật có liên quan (đến chủ đề của luận văn). Ngoài ra luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác của Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là các công trình khoa học về quyền con người, quyền công dân, về nhà nước và pháp luật, về Hiến pháp và hệ thống chính trị; các văn kiện quốc tế về nhân quyền, văn kiện của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật, Hiến pháp Việt Nam và của một số nước khác…

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Hiến pháp

hiện hành về các quyền dân sự. Quyền dân sự trong Luật Nhân quyền Quốc tế và Pháp luật Việt Nam (Bao gồm các quyền: Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân; Quyền về xét xử công bằng; Quyền về tự do đi lại, cư trú; Quyền được bảo vệ đời tư; Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân).

5. Tổng quan tài liệu

Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền cơ bản con người nói chung, quyền dân sự nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu đã công bố:”

- Trong nước có các công trình như: "Quyền con người trong thế giới hiện đại" của nguyên Giám đốc trung tâm quyền con người của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh GS.TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do GS.TS. Đào Trí Úc làm chủ biên; “Hiến pháp trong Nhà nước pháp” quyền do GS.TS. Nguyễn Đăng Dung làm chủ biên; “Bàn về quyền con người, quyền công dân” của GS.TS. Trần Ngọc Đường; “Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do GS.TS. Dương Xuân Ngọc làm chủ biên...

- Ở nước ngoài cũng đã nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền nói chung (The Rule of law của M. Hager); bảo đảm quyền con người trong hệ thống tư pháp (Saudi Arabia, human rights: Judicial system).

6. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm quyền con người. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con người và sử dụng cách tiếp cận liên kết.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê v.v...

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nghiên cứu thực tiễn việc quy định về các quyền dân sự trong luật nhân quyền quốc tế, pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu.

7. Kết cấu luận văn


Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định về các quyền dân sự theo Hiến pháp Việt Nam

Chương 2: Nội dung các quyền con người về dân sự theo quy định của Hiến pháp Việt Nam hiện hành.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về các quyền dân sự theo Hiến pháp Việt Nam hiện hành.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM


1.1. Lý luận chung về quyền con người và bảo vệ quyền con người về dân sự bằng hiến pháp

1.1.1. Nhận thức chung về quyền con người

Quyền con người (nhân quyền - human right) là một phạm trù đa diện, do đó từ trước đến nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người đã được công bố tùy theo các cách tiếp cận khác nhau, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, Quyền con người: “là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [9, tr.37].

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của cộng đồng quốc tế thì quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Xét chung lại, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.

Trong lịch sử chính trị tư tưởng của nhân loại, ngay từ thời cổ đại đã có

sự bàn luận về các quyền của con người. Ở thời kỳ đó, thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã sử dụng các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Các triết gia thời đó cho rằng, các quyền tự nhiên thuộc sở hữu của tất cả mọi người. Hammurabi (người sáng lập ra Babylon cổ đại) quan niệm rằng, công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh làm hại người yếu. Còn Mạnh Tử (Trung Quốc cổ đại) từ ba trăm năm trước Công nguyên đã khẳng định rằng, cá nhân con người là vô cùng quan trọng, nhất cách của vua chúa ít quan trọng hơn... Lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng về quyền con người không chỉ thể hiện thông qua các đạo luật như: Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780 TCN), Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành khoảng năm 576-529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka ban hành vào khoảng năm 271 – 231; Hiến pháp Medina do nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215) và Bộ luật quyền (1689) của nước Anh; Bộ luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình Luật (1479-1497)) của Việt Nam; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân (1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập (1776) và Bộ luật về các quyền (1789) của Mỹ…mà còn được phản ánh một cách sâu sắc và cụ thể trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo, chính trị và pháp lý như Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh phật của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi; Bàn về tự do của John Stuart Mill (1959); các quyền của con người cảu Thomas Pain (1791) và còn nhiều tư tưởng, học thuyết về con người của các nhà triết học tiêu biểu như: Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704), Thomas Paine (1731 – 1809)… Vì vậy có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề quyền con người, do cách tiếp cận, hoàn cảnh lịch sử, tư tưởng con người theo thế hệ, chế độ chính trị… tuy nhiên có thể thấy học thuyết Mác – Lênin có cách nhìn khái quát, đầy đủ, toàn diện về vấn đề con người hơn cả.

Học thuyết Mác – Lê nin thể hiện những tư tưởng nhân văn chân chính nhất của loài người, là sự kế thừa một cách biện chứng những giá trị tinh hoa của nhân loại về con người và quyền con người, xuất phát từ con người là một thực thể thống nhất, một “Sinh vật – xã hội”. Do đó, quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền xã hội”, sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.

Sự thống nhất giữa hai yếu tố đó có thể tìm thấy trong lý luận của C.Mác về quyền con người. C.Mác cho rằng, con người là sản phẩm cao nhất của tiến trình vận động và phát triển của lịch sử, một mặt là sản phẩm của những điều kiện xung quanh trong suốt cuộc đời và do đó lại chính là xã hội sản sinh ra con người. Bản thân con người là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Từ đó, việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể là đúng khi đặt nó trong quan hệ xã hội, bởi vì, chỉ có trong cộng đồng thì mỗi cá nhân mới có những phương tiện, điều kiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và mới có thể có tự do cá nhân.

Tính lịch sử của quyền con người được C.Mác quan niệm rằng, quyền con người không phải là một khái niệm trừu tượng và không chỉ là quyền mang tính tự nhiên mà luôn gắn với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, gắn với trình độ, tiến bộ xã hội trong từng thời kỳ. Nghĩa là, quyền con người phụ thuộc vào phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất quy định nên chế độ chính trị - xã hội ấy.

Quyền con người mang tính nhân loại sâu sắc vì nó là kết quả cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động nhằm đập tan ách thống trị trên toàn thế giới giành lại quyền tự do chân chính cho mình, là giá trị nhân văn cao quý nhất mà xã hội loài người hướng tới, là sự giải phóng hoàn toàn cá nhân con người để phát triển toàn diện nhân cách của mình. Điều đó chỉ có thể thực hiện được không chỉ ở một quốc gia, một dân tộc, mà phải là sự giải phóng toàn nhân loại.

Bảng 1.1: Một số sự kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng về quyền con người của nhân loại từ trước đến nay

Thời gian

Sự kiện, văn kiện

1789 TCN

Bộ luật Hammurabi

1200 TCN

Kinh vệ đà

570 TCN

Luật của Cyrus Đại đế

586 – 456 TCN

Kinh phật

479 – 421 TCN

“Luật ngữ” của Khổng tử

7-1 TCN

Kinh Thánh

610 – 612

Kinh Kôran

1215

Đại hiến chương Magna Carta (Anh)

1689

Luật về Quyền (Anh); “Hai khảo luận về chính quyền” của John Locker

1776

“Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ)

1789

“Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp)

Bộ luật về các quyền (10 tu chính án đầu tiên của hiến pháp) (Mỹ)

1791

“Các quyền của con người” của Thomas Pain

1859

“Bàn về tự do” của John Stuart Mill

1863 – 1864

Ủy ban Chữ Thập đỏ quốc tế được thành lập, Công ước Giơnevơ

lần thứ I được thông qua, mở đầu cho ngành luật nhân đạo quốc tế

1917

Cách mạng tháng mười Nga

1919

Hội quốc liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập

1945

Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương Liên hợp quốc

1948

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người

1966

Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự và Công ước về

các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

1968

Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Têhêran (Iran)

1993

Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tại Viên (Áo),

thông qua Tuyên bố Viên và Chương trình hành động

2002

Quy chế Rô ma có hiệu lực, Tòa án hình sự quốc tế (thường trực)

được thành lập.

2006

Cải tổ bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc, thay thế Ủy

ban quyền con người bằng Hội đồng quyền con người

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành - 2

Nguồn: Khoa Luật – ĐHQGHN (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, tr.56-57, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, những nguyên tắc về quyền con người trở thành những quy tắc ứng xử, những chuẩn mực pháp lý quốc tế được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như Hiến chương Liên hợp quốc, trong các tuyên ngôn, các công ước quốc tế mà các thành viên tham gia có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân theo (theo thống kê, Liên hợp quốc đã thông qua trên 70 văn bản quốc tế về lĩnh vực quyền con người trong đó có 25 công ước). Hệ thống đồ sộ các văn kiện pháp lý quốc tế ấy làm cho các quyền con người có căn cứ để được tôn trọng và bảo vệ. Ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Việc bảo đảm quyền con người của các quốc gia thể hiện ở ba nghĩa vụ cụ thể là:

Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obiligation to respect): Các nhà nước có nghĩa vụ kiềm chế không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc hưởng thụ các quyền con người của các chủ thể quyền. Nghĩa vụ này là nghĩa vụ thụ động vì nó không bắt buộc các nhà nước phải chủ động đưa ra những sáng kiến, biện pháp, chương trình hỗ trợ các công dân trong việc hưởng thụ quyền.

Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): Các nhà nước có nghĩa vụ ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba. Nghĩa vụ này là nghĩa vụ chủ động vì để ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba, nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng những cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm.

Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): Các nhà nước có nghĩa vụ phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân hưởng thụ đầy đủ các quyền con người. Đây cũng được coi là nghĩa vụ chủ động, bởi nó yêu cầu các nhà nước phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân có thể hưởng thụ đến mức cao nhất có thể các quyền con người.

Như vậy, nhìn ở góc độ, cấp độ, tính chất nào thì quyền con người cũng được xác định như những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí