Khái niệm hình tượng con người
Trong hình tượng có rất nhiều hình tượng như hình tượng con người, hình tượng thiên thiên, hình tượng con vật…nhưng một trong những hình tượng quan trọng trong tác phẩm nghệ thuật đó là hình tượng con người.
Hình tượng con người vốn rất quen thuộc với mọi người, nhưng làm thế nào để khác với hình tượng khai thác trước lại là công việc của mỗi nghệ sỹ. Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình hay bất kỳ hình tượng nghệ thuật nào khác đều phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống kết hợp với cảm xúc của người nghệ sỹ. Nhưng để tạo ra hình tượng con người chừng đó là chưa đủ, người nghệ sỹ phải nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội rồi từ đó chắt lọc và sáng tạo nên.
Bằng ngôn ngữ tạo hình các nghệ sỹ đã để lại một kho tàng đồ sộ những tác phẩm sáng tác về hình tượng con người, nhằm tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp hình tượng con người. Chúng ta có thể bắt gặp hình tượng con người ở rất nhiều các tác phẩm với những chất liệu khác nhau như trên mặt trống đồng cổ xưa, trên những mảng chạm khắc đình làng, trên các chất liệu tranh sơn dầu, sơn mài, lụa, tranh in…
Qua những phân tích về hình tượng và hình tượng con người có thể kết luận: hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình là hình tượng mà trong đó hình ảnh con người là trọng tâm nhân vật trong tác phẩm. Hình tượng con người trong nghệ thuật được tác giả cô đọng, mô phỏng và sáng tạo nên, nó phản ánh hiện thực khách quan của cuộc sống.
1.1.2. Khái niệm “ nghệ thuật chạm khắc đình làng”
Khái niệm nghệ thuật chạm khắc
Trong cuốn “ từ điển tiếng Việt” của Hoàng Phê có giải thích thuật ngữ “ chạm khắc”: là tạo nên những đường nét hoặc hình khối nghệ thuật trên mặt vật rắn bằng cách đục, khắc; chạm là kỹ thuật đục xuống vật liệu như đá, gỗ, ngà…để làm nổi bật lên các hình tượng nghệ thuật muốn diễn tả.
Có thể bạn quan tâm!
- Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc Đình Hoành Sơn - 1
- Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc Đình Hoành Sơn - 2
- Hình Tượng Con Người Được Thể Hiện Qua Nội Dung Chủ Đề Nghệ Thuật Chạm Khắc
- Hình Tượng Con Người Trong Hoạt Động Vui Chơi Giải Trí
- Hình Tượng Con Người Thể Hiện Qua Cấu Trúc Tỉ Lệ.
Xem toàn bộ 83 trang tài liệu này.
Trong cuốn từ điển “thuật ngữ mỹ thuật phổ thông” của Đặng Bích Ngân có nêu thuật ngữ “chạm khắc” là vạch trũng xuống những đường nét, hình thể chữ hoặc văn tự từ một bề mặt cứng như gỗ, kim loại, đá, bằng dụng cụ nhọn sắc như dao trổ, đục….họa sỹ dùng dao khắc khắc lên những tấm gỗ làm thành ván in để in tranh; nhà điêu khắc dùng đục, để chạm khắc trên những mặt gỗ hay phiến đá… ,
Vậy nghệ thuật chạm khắc là sử dụng kỹ thuật đục, khắc, chạm…để tạo nên những đường nét, hình khối, trên chất liệu như gỗ, đá, ngà, …nhằm làm nổi bật lên hình tượng nghệ thuật muốn diễn tả.
Khái niệm chạm khắc đình làng
Trong cuốn “Điêu khắc đình làng”, tác giả Trương Duy Bích khẳng định: “Nghệ thuật điêu khắc đình làng không chỉ đơn thuần mang tính chất trang trí mà còn tác động mạnh đến cấu kiện kiến trúc về tính thẩm mỹ, làm cho tổng thể công trình kiến trúc có được tiếng nói mới - Tiếng nói tâm tư, tình cảm của người dân lao động”. [3,tr .40,45]
Cấu kiện kiến trúc nội thất ở đình làng được tập trung trang trí trên ván cốn, ván lá đề, xà ngang, vì nách... Để những mảng gỗ đó đẹp có tính thẩm mỹ các nghệ nhân đã trang trí họa tiết lên đó. Chính các họa tiết đó làm cho giá trị thẩm mỹ của ngôi đình càng đẹp lên. Sự kết hợp giữa họa tiết và kiến trúc của ngôi đình càng có giá trị nghệ thuật.
Thông qua chạm khắc đình làng các nghệ nhân đã thể hiện tiếng nói của mình, tiếng nói tâm tư tình cảm, phản ánh thiên nhiên, con người của dân tộc.
Từ khái niệm chạm khắc và phân tích các cấu kiện trong đình làng thường chạm họa tiết trang trí có thể kết luận: chạm khắc đình làng là chạm khắc mà các họa tiết trang trí được người nghệ nhân sử dụng vào các cấu kiện kiến trúc của đình làng. Các họa tiết đó đem lại giá trị nghệ thuật cho ngôi đình và phản ánh tâm tư tình cảm của người nghệ sỹ.
1.1.3. Khái niệm “hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng”
Hình tượng nghệ thuật:
Theo phạm trù cơ bản của mỹ học hình tượng nghệ thuật dùng để chỉ một hình thức phản ánh hiện thực đặc thù bằng phương tiện nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật khác với các phạm trù của tư duy khoa học như: khái niệm, phán đoán, diễn dịch, do tính chất trực tiếp của nó. Đồng thời nó cũng khác với các phạm trù khác như: cảm giác, tri giác, biểu tượng, vì ngoài sự phản ánh trực tiếp hiện thực, nó còn nhằm tổng hợp các hiện tượng của đời sống theo một kiểu riêng. Nó thâm nhập vào bản chất của các hiện tượng đó và làm sáng rõ ý nghĩa sâu xa của nó. Hình tượng nghệ thuật làm xuất hiện một trong sự thống nhất khăng khít các yếu tố của nhận thức trực quan tích cực và tư duy trừu tượng, nhưng đồng thời nó cũng khác về bản chất.
Nếu như khoa học xã hội sử dụng những khái niệm, định nghĩa để thể hiện mình thì nghệ thuật lấy hình tượng để diễn tả, tái hiện đối tượng, nội dung mà nó đề cập. Khái niệm hình tượng nghệ thuật từ lâu đã không còn xa lạ với những ai đã từng tiếp xúc với bất cứ loại hình nghệ thuật nào như: văn học, hội họa, điêu khắc, ca kịch,… Người nghệ sĩ dùng hình tượng nghệ thuật để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình, nhờ những hình tượng đó mà sự vật hiện tượng được tái hiện một cách sinh động nhưng đồng thời cũng nhờ nó mà cái tâm, cái tài người nghệ sĩ được thể hiện một cách tròn đầy và vẹn nguyên nhất.
Từ những nhận định đã phân tích ở trên có thể kết luận hình tượng nghệ thuật là: phương tiện nghệ thuật nhằm thể hiện cuộc sống phát sinh từ cuộc sống, tác động vào tình cảm, thức tỉnh tư duy, giúp cho con người thức tỉnh được mình, thức tỉnh mối quan hệ giữa chủ thể và khác thể, giữa cá nhân và xã hội, giữa hiện thực và lý tưởng. Hình thượng nghệ thuật là điều kiện đầu tiên để tạo nên giá trị của tác phẩm nghệ thuật
Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng:
Đình làng là nơi sinh hoạt, hội họp của cộng đồng làng. Nghệ thuật chạm khắc ở đình làng rất phong phú với nhiều mootip trang trí khác nhau như các con vật linh thiêng: rồng, phượng; thiên nhiên: hoa, lá, mây, nước…hoa, lá, mây, nước. Ngoài ra còn có cả hình tượng con người được các nghệ nhân thể hiện ở trong các đình làng.
Hình tượng con người trong chạm khắc đình làng không chỉ đơn thuần để trang trí cho kiến trúc hoặc các hiện vật nào đó, mà chúng là sự kết tinh muôn đời, muôn thuở của dân tộc Việt Nam. Hình tượng con người gắn vào cuộc sống thường ngày trước việc ứng xử với cái đẹp, để trở thành những mảng tâm hồn nhân thế và cõng trên lưng biết bao vấn đề lịch sử, xã hội của dân tộc. Chúng luôn mang đậm nhiều khía cạnh về tiếng nói và chiếm địa vị vàng son trong văn hóa nghệ thuật đương thời.
Hình tượng con người trang trí phía trong đình thường được sử dụng chất liệu gỗ. Vì chất liệu gỗ không chịu được thời tiết khắc nghiệt ngoài trời như nắng, mưa, gió…
Hình tượng con người trang trí phía ngoài đình thường sử dụng chất liệu đá như trang trí dọc lan can thềm. lan can bậc thềm . Vì chất liệu đá cứng chịu được thời tiết khắc nghiệt ngoài trời.
Các vị trí trong chạm khắc đình làng thường được trang trí hình tượng con người đó là cốn, vì nách, xà ngang…đó là những vị trí mà chúng ta rất dễ nhìn thấy hình ảnh chạm khắc khi bước vào đình
Những nội dung của hình tượng con người trong chạm khắc đình làng thường gắn với đời sống con người thực, phản ánh xã hội và lịch sử. Những nội dung đó thể hiện những khía cạnh khác nhau như hình tượng con người với lao động sản xuất, hình tượng con người với vui chơi, giải trí, hình tượng con người với lễ hội…. Hình tượng con người phản ánh đời sống sinh hoạt của nhân dân lao động,
Từ những phân tích trên có thể nhận xét hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng như sau: là những hình tượng nghệ thuật phản ánh đúng hiện thực cuộc sống của người dân, được thể hiện trong các vị trí kiến trúc của đình làng . Nó mang lại tính thẩm mỹ cho kiến trúc của ngôi đình đồng thời nói lên tâm tư tình cảnh của người nghệ nhân chạm khắc.
1.2. Khái quát về đình Hoành Sơn
1.2.1. Lược sử đình Hoành Sơn
Đình Hoành Sơn có tên gọi là đình Ngang, ở làng Nam Hòa Thượng, xã Khánh Trung , huyện Nam Đàn, tình Nghệ An. Đình được xây dựng trên địa thế bằng phẳng nhìn về phía Bắc, hướng ra dòng sông Lam, lưng tựa núi, đây được xem là vị trí đẹp, thuận lợi nhất theo quy luật “ phong thủy” của người xưa: trước là sông khoáng đạt, sau là núi, là cư dân tạo nên sự ấm cúng cho đình.
Ngôi đình được khởi công xây dựng vào tháng chạp năm Nhâm Ngọ - Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (tức là vào tháng 12 năm 1763) và đến cuối năm Quý Mùi (1764) thì hoàn thành. Nghĩa là công việc xây dựng này được làm trong vòng 1 năm.
Đình Hoành Sơn thờ U Minh Vương Lý Nhật Quang văn võ song toàn, tư chất hơn người, là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ. Ông có công lập làng mới ở tổng Nam Kim ( thuộc huyện Nam Đàn – Nghệ An). Triều đình phong ông là U Minh Vương nhưng dân làng tôn ông là Thành Hoàng Tam tòa. Xứ Nghệ có hơn một trăm nơi thờ ông, trong đó làng Hoành Sơn thờ làm Thành Hoàng ở đình. Ngoài U Minh Vương Lý Nhật Quang, đình còn thờ Tứ vị Thánh Nương, Quan Hầu Thông giám. Hiện nay đình còn thờ tám pho tượng Phật và bài vị các khoa bảng. Dân làng coi đó là các vị Tiên hiền của họ.
Người khởi xướng và chủ sự xây dựng công trình này là ông Đặng Thạc- ông đỗ cử nhân dưới triều vua Lê Hiển Tông(1740-1786) thuộc gia đình dòng dõi thế tộc và có uy quyền rất lớn trong vùng. Tương truyền nhiều toán thợ có tiếng đến nhận đề tài rồi bí mật làm vì toán thợ nào làm đẹp nhất thì được
thưởng lớn. Toán thợ Hoa Nam Thượng không được mời đến, họ bày mưu cử người thợ giỏi nhất tên Chuẩn giả dạng ăn mày đến chỗ làm đình xin ngủ lại rồi cố tình đốt cháy một vì ở phía Nam của ngôi đình, Đặng Thạc vô cùng tức dận nhưng người ăn mày đã xin được làm lại, chỉ trong một thời gian ngắn một số bức chạm đã khiến cả hội đồng kỳ mục phải kinh ngạc và thán phục. Đó cũng là lý do giải thích tại sao các nét chạm trổ và nghệ thuật trang trí của ngôi đình lại đa màu sắc đến thế. Sau này nhân dân đã suy tôn Đặng Thạc và người thợ tên Chuẩn thành những vị phúc thần của làng.
Tương truyền, trong đình có rất nhiều pho tượng ( hơn 100 pho) nhưng vào trận lũ lịch sử năm 1978 và 1988 đã làm con đê chắn trước chùa bị vỡ và nước đã cuốn trôi gần hết số tượng đó, cho đến nay trong đình chỉ lưu giữ được 10 pho. Đình được xây dựng đồ sộ, uy nghiêm thể hiện tập trung nhất ở Bái đường có 8 vì, 7 gian có tổng số 32 cột lim tròn, trong đó có 12 cột cái cao 5m, đường kính 0,45m và 20 cột quân cao gần 4m. Trong đình có 4 hàng cột dọc và 8 hàng cột ngang, các vì kèo có kết cấu chồng rường. Kết cấu của đình đặc biệt vững chắc có hệ thống chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt gió Lào và bão lụt. Đình Hoành Sơn được bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào tháng 7 năm 1984. Trải qua năm tháng đến nay đình Hoành Sơn hiện một số chi tiết đã bị mất mát, hư hỏng, một số được làm lại.
Ngày hội hàng năm được tổ chức vào ngày 15 tháng 6 âm lịch. Trong ngày hội, dân làng rước Đức Thánh Cả, Đức Thánh Nhì, Đức Thánh Ba, Đức Thánh Tư, Đức Thánh Năm về đình và tổ chức bơi thuyền, đánh cờ người, đánh đu…Trai lấy vợ, gái lấy chồng đều phải ra đình làm lễ trước Thành Hoàng. Lễ hội ở đình Hoành Sơn gồm hai phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm rước văn, lễ tế vật, lễ thượng hương, lễ dâng rượu, lễ đọc chúc, lễ hưởng lộc. Phần hội có các trò chơi, thi đấu như đua thuyền, đánh cờ, đấu võ, đấu vật…
Đình Hoành Sơn là một công trình tưởng niệm chung cho tất cả những người đã có những đóng góp lớn lao cho sự ra đời, trưởng thành, phát triển phồn
thịnh của làng Hoành Sơn và nước Việt Nam. Đó là những tư liệu quý giúp cho việc sưu tầm biên soạn về lịch sử văn hóa và truyền thống của nhân dân ta.
1.2.2. Khái quát kiến trúc đình Hoành Sơn
Đình Hoành Sơn cũng giống bao ngôi đình khác phản ánh đậm nét tư duy dân dã của người Việt xưa. Đình tọa lạc trên một khuôn viên rộng với bố cục kiến trúc truyền thống, gồm các hạng mục chính, tính từ ngoài vào sân đình, bãi đường, hậu cung. Ngoài ra còn có văn từ và một số hạng mục phụ trợ khác...Đình có kiến trúc hình chữ Nhất quay về hướng Bắc là hướng đắc địa, hướng được coi là khá phù hợp với quy luật của âm dương đối đãi, người dân quan niệm rằng theo hướng này là thần thường xuyên ban phước và che chở cho họ.
Đình Hoành Sơn có kiến trúc rất đồ sộ làm theo kiểu chữ Nhất. có 4 mái lợp ngói âm dương, bốn đầu đao cong vút với hình “ long vân” nhìn về bốn hướng. Dọc các bờ mái là đường viền hoa thị được đắp bằng vôi vữa, phía trên bờ nóc là hình ảnh “ lưỡng long chầu nguyệt” một hình ảnh quen thuộc của rất nhiều ngôi đình Việt Nam.
Đình có bảy gian, hai chái. Mỗi gian do một đám thợ đảm nhận nên từng gian có sắc thái nghệ thuật riêng. Trên các xà nhà, các đường kèo đều được chạm trổ tinh vi. Nhưng tất cả đều phản ánh sinh hoạt của người dân lao động thời đó. Phong cách kiến trúc nghệ thuật điêu khắc ở đình Hoành Sơn mang dáng dấp của lối kiến trúc thế kỷ 17– 18. Các vì kèo liên kết cấu trúc “ chồng diêm”. Các cột đình đều có đường kính trên 50cm và là cơ sở chịu lực của toàn bộ kết cấu đình.
Bố cục đình Hoành Sơn gồm: sân đình, bái đường và hậu cung. Trong bố cục đó, không gian chủ yếu vẫn là tòa đại đình (đại bái), là nơi diễn ra các hoạt động hội họp, ăn khao, khao vọng, phạt vạ... của dân làng. Đại đình của đình Hoành Sơn là tòa nhà lớn nhất trong quần thể, bề thế, trang trọng. Theo ông Tư người cai quản ngôi đình Hoành Sơn cho biết: trước đây đại đình ở có sàn lát ván, cao từ 60 đến 80 cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ bậc cho
những người ngồi ở Đại đình nhưng theo thời gian lịch sử cộng với khí hậu khắc nghiệt của miền trung thì sàn đình bây giờ không còn nữa. Hệ thống lan can giữa cột cái và cột quân cũng bị hư hại nay không còn nữa.
Kiến trúc đại đình của đình Hoành Sơn hoành tráng, đồ sộ và uy nghi. Là một kiến trúc gồm có 7 gian chính, 2 chái, 8 vì, 36 cột (16 cột cái, 20 cột phụ) bao gồm tiền điện và hậu điện với diện tích khoảng 150 m2, tọa lạc trên diện tích khoảng 2,5 nghìn m2. Cột đình được làm bằng gỗ lim và chò chỉ, đường kính lớn, đều nhau, tay người ôm không xuể. Ngoài ra, rải đều trên 2 mái bằng gỗ lim tròn còn có 26 đường hoành và 42 đường xà, các đường chân thủy bao quanh.
Gian giữa toà tiền tế không có hệ thống ván sàn, hệ thống lan can kết nối giữa cột cái với cột quân cũng không còn. Tòa tiền tế rộng lớn hơn các gian bên một chút, để phù hợp với yêu cầu tổ chức các nghi lễ. Hai bộ vì gian giữa gồm vì nóc và vì nách. Vì nóc được kết cấu theo kiểu “biến thể chồng rường giá chiêng con nhị”, các con rường chồng lên nhau thông qua đấu vuông thót đáy. Rường là các con dầm làm nhiệm vụ đỡ các hoành mái, nó được tạo tác kiểu “rường bụng lợn”, điểm giữa con rường võng xuống, trên cùng là một rường nằm trên đấu dạng khối vuông, làm nhiệm vụ đỡ thượng lương (xà nóc). Hai đầu con rường đều khoét các ổ để đỡ các hoành mái. Vậy các con rường và hệ thống cột làm nhiệm vụ quan trọng trong vấn đề chịu lực của trọng lượng mái đình.Vì nách có kết cấu kiểu dạng “cốn chồng rường”, các con rường được chồng khít lên nhau không thông qua trụ đấu, độ dài của các con rường được thu ngắn lại từ dưới lên trên. Đầu rường được khoét ổ, kê dầm đỡ hoành mái.
Các hoa văn trang trí trong đình Hoành Sơn tập trung chủ yếu ở tòa đại đình. Hoa văn được chạm khắc rất công phu, có độ tinh xảo cao, được các nghệ sỹ tài hoa thể hiện trên các bộ phận của đình như trên cột cái, ván nong …với nhiều đề tài khác nhau như: bát tiên, cưỡi hạc, đánh cờ, đua thuyền, tứ linh, tứ quý, đại bàng đối xứng từng gian, rồng ổ.Nếu như trên các ván nong thể hiện