BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
VŨ HOÀNG CÚC
HIỆN TƯỢNG CHUYỂN TRƯỜNG NGHĨA TRONG THƠ XUÂN DIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Có thể bạn quan tâm!
- Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu - 2
- Các Dạng Chuyển Đổi Trường Nghĩa Trong Thơ Xuân Diệu
- Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu - 4
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
VŨ HOÀNG CÚC
HIỆN TƯỢNG CHUYỂN TRƯỜNG NGHĨA TRONG THƠ XUÂN DIỆU
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐỖ VIỆT HÙNG
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chuyển trường nghĩa là một hiện tượng khá đặc biệt trong sử dụng ngôn ngữ. Nó tạo ra những giá trị biểu đạt mới cho từ, theo đó tạo ra nhiều liên tưởng bất ngờ về ý nghĩa cho câu và văn bản. Hiện tượng này khi xuất hiện một cách tập trung và có chủ ý sẽ khiến cho cuộc giao tiếp ngôn ngữ mang một sắc thái khác lạ. Để thoát khỏi quán tính của thói quen trong giao tiếp ngôn ngữ người ta có thể có nhiều lựa chọn khác nhau. Việc sử dụng từ vựng chuyển đổi trường nghĩa là một trong những cách thức độc đáo và hiệu quả. Lời nói thường ngày mà dùng đến phương thức này nhiều khi làm tổn hại đến tính phổ thông (vốn là một thuộc tính cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ). Tuy nhiên, trong sáng tác nghệ thuật, việc dùng từ vựng theo phương thức chuyển đổi trường nghĩa lại được các nhà nghệ sĩ ngôn từ đặc biệt ưa dùng. Vì vậy, có thể nói, chuyển đổi trường nghĩa từ vựng có thể được coi là một biện pháp tu từ hiệu quả trong sáng tác văn chương.
1.2. Xuân Diệu là một tác gia lớn trong Văn học Việt Nam hiện đại. Bằng phong cách rất riêng, ông đã để lại cho đời một thành tựu nghệ thuật đồ sộ với nhiều tác phẩm thơ ca đặc sắc. Nói về Xuân Diệu, người ta thường nhắc đến thơ ông với những cách tân độc đáo, thú vị, bất ngờ và lạ lẫm. Trong những “cái mới” mà Xuân Diệu đưa đến cho nền thi ca Việt Nam hiện đại, có lẽ, ấn tượng nhất là những cách tân ngôn ngữ. Ở thơ ông, ta thấy một số lượng lớn từ vựng được sử dụng trong bối cảnh chuyển đổi ý nghĩa. Sự chuyển đổi trường không những đã khiến cho thơ ông thoát ra ngoài quy luật dùng từ ngữ sáo mòn mà còn giúp cho những tác phẩm thơ vượt lên trên các giới hạn của phong trào thơ đương đại. Trong sáng tác thi ca, Xuân Diệu đã gắn kết các từ ngữ khác trường nghĩa lại với nhau, tạo ra rất nhiều kiểu chuyển nghĩa, chuyển trường của từ. Sự chuyển trường ấy tạo nên những kết hợp phi lôgic thông thường, làm cho người ta ngỡ ngàng từ câu chữ cho đến ý nghĩa ẩn chứa bên trong chúng.
1.3. Giá trị của thơ Xuân Diệu có thể được nhìn nhận từ các góc độ khác nhau. Nghiên cứu thơ ông từ hiện tượng chuyển trường nghĩa cũng là một hướng đi cần thiết và đầy sức hút.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu” làm luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề trường nghĩa
Lí thuyết về trường nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm từ rất sớm, có thể kể đến các tác giả như F. De. Saussure, J.Trier, L. Weisgerber... Các tác giả này đã đưa ra các quan niệm, các khía cạnh khác nhau về trường nghĩa xuất phát từ những góc nhìn riêng của mình.
Ở Việt Nam cũng có không ít nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu trường nghĩa từ vựng. Trong đó, tiêu biểu là GS. Đỗ Hữu Châu, PGS. Đỗ Việt Hùng. Các tác giả đã cụ thể hóa trường từ vựng - ngữ nghĩa bằng cứ liệu tiếng Việt trong các chuyên luận và giáo trình. Đây chính là cơ sở lí thuyết và thực tiễn cho vấn đề mà Đề tài đặt ra.
2.1. Vấn đề hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu
Ở nước ta, đã có rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về thơ Xuân Diệu. Hầu hết chúng đề cập đến những đặc trưng về mặt nội dung và nghệ thuật của thơ ông, khẳng định tài năng và phong cách của ông. Tuy nhiên, từ một góc nhìn hẹp, chưa có công trình, bài viết nào đề cập đến hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Thứ nhất, xác nhận các vấn đề thuộc về cách thức và đặc điểm của hiện tượng trường nghĩa và chuyển di trường nghĩa của từ; Thứ hai, tập trung khảo sát hiện tượng sử dụng từ ngữ chuyển trường nghĩa ở tần số cao và hiện tượng chuyển di trường nghĩa của từ trong thơ Xuân Diệu. Trong đó, chúng tôi giới hạn việc tìm hiểu sự chuyển trường nghĩa trên bình diện ngữ nghĩa học và dụng học.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tìm hiểu sâu hơn về những đóng góp của Xuân Diệu trong sáng tạo ngôn ngữ thơ ở một góc hẹp: sử dụng trường nghĩa từ vựng và chuyển di trường nghĩa từ vựng (từ lí thuyết ngữ nghĩa và ngữ dụng). Qua đó, đề tài góp thêm một sự lí giải về giá trị của thơ Xuân Diệu từ góc nhìn của ngôn ngữ học.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Xác định cơ sở lý luận của đề tài
- Thống kê các từ ngữ trong thơ Xuân Diệu theo trường nghĩa để xác định các trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
- Khảo sát các kết hợp cụ thể để tìm ra các hiện tượng chuyển trường nghĩa.
- Qua phân tích các kết hợp được tạo ra do hiện tượng chuyển nghĩa của từ, rút ra những giá trị biểu đạt nhất định và đặc điểm phong cách thơ Xuân Diệu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng chủ yếu hai phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả để miêu tả đặc điểm chuyển trường của từ và cấu tạo của các kết hợp được tạo ra do sự chuyển trường ấy.
- Phương pháp phân tích (phân tích ngữ nghĩa và phân tích ngữ cảnh) để làm rõ giá trị biểu hiện của từ trong từng trường hợp chuyển trường cụ thể, đồng thời chỉ ra giá trị của hiện tượng chuyển trường nghĩa trong việc thể hiện nội dung và nghệ thuật của thơ Xuân Diệu.
Ngoài hai phương pháp trên, luận văn còn sử dụng thủ pháp thống kê, phân loại.
+ Thủ pháp thống kê dùng để tổng hợp ngữ liệu, qua đó, nắm được một cách khái quát về hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
+ Thủ pháp phân loại dùng để phân loại ngữ liệu và xác định các đặc điểm của hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Từ lý thuyết trường nghĩa Luận văn đặt ra nhiệm vụ xác định sự chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
6.2. Làm rõ vai trò của việc sử dụng phương thức chuyển di trường nghĩa từ vựng trong sáng tác thi ca của Xuân Diệu, từ đó khẳng định những đóng góp của ông về sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật.
6.3. Góp phần làm sáng tỏ thêm lý thuyết chuyển trường nghĩa trong sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật.
7. Cấu trúc của luận văn
Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung Luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Các trường nghĩa và hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu
Chương 3: Giá trị biểu đạt của hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu
Sau cùng là phần Phụ lục và Tài liệu tham khảo
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Về khái niệm trường nghĩa
Trường nghĩa còn được gọi là trường ngữ nghĩa, trường từ vựng ngữ nghĩa (semantic filed, lexcal filed). Lí thuyết về các trường được các nhà ngôn ngữ Đức và Thuỵ Sĩ đưa ra vào những thập kỉ 20 và 30 của thế kỉ XX. Lí thuyết này bắt nguồn từ những tư tưởng về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong ngôn ngữ của
W. Humboldt, M. Pokrovxkij, Meyer. Nhưng tiền đề thúc đẩy một cách quyết định sự hình thành nên lí thuyết về các trường là những nguyên lí của F. De Saussure, đặc biệt là luận điểm “giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng do những yếu tố xung quanh quy định” [6, 243] và “chính phải xuất phát từ cái toàn thể làm thành một khối để phân tích ra những yếu tố mà nó chứa đựng” [6, 244] của ông.
Nói đến lí thuyết về trường nghĩa, ta phải nhắc đến tên tuổi của hai nhà ngôn ngữ người Đức là J. Trier và L. Weisgerber. Với J. Trier (theo đánh giá của S. Ullmann), lịch sử ngữ nghĩa học đã mở ra một giai đoạn mới. Ông là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “trường” vào ngôn ngữ học và đã thử áp dụng quan điểm cấu trúc vào lĩnh vực từ vựng ngữ nghĩa. J. Trier cho rằng, trong ngôn ngữ, mỗi từ tồn tại trong một trường, giá trị của nó là do quan hệ với các từ khác trong trường quyết định. Còn L. Weisgerber, ông lại có một quan điểm rất đáng chú ý về các trường – theo ông, cần phải tính đến các “góc nhìn” khác nhau mà tác động giữa chúng sẽ cho kết quả là sự ngôn ngữ hoá một lĩnh vực nào đó của cuộc sống.
Các trường kiểu của J. Trier và L. Weisgerber là những trường có tính chất đối vị, gọi tắt là trường trực tuyến (dọc).
Ngoài hai tác giả trên, trường trực tuyến cũng được nhiều nhà ngôn ngữ khác đề cập đến. Có thể kể đến các tác giả như Cazarès, P. M Roget, R. Hallig, W. Von Warburg, W. P. Zaleskij, Duchacek, H. Husgen, K. Reuning.
Khác với các nhà nghiên cứu trên, W. Porzig lại xây dựng quan niệm về các trường tuyến tính hay trường ngang. Theo ông, trường là những cặp từ có quan hệ
kiểu như “gehen” – “fuber” (“đi” – “chân”), “greifen” – “hand” (“cầm” – “tay”), “sechen” – “auge” (“nhìn” – “mắt”)… Đây không phải là những quan hệ chung nhất, những quan hệ ngữ nghĩa tạo nên “các trường cơ bản của ý nghĩa”. Trung tâm của “các trường cơ bản của ý nghĩa” là các động từ và tính từ vì chúng thường đảm nhiệm chức năng vị ngữ trong câu, do đó chúng thường ít nghĩa hơn các danh từ.
Ở Việt Nam, trường nghĩa cũng được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Đỗ Việt Hùng… Trong đó, Đỗ Hữu Châu là người đi đầu trong việc đưa ra lí thuyết về trường nghĩa cũng như những phạm trù ngôn ngữ liên quan đến trường nghĩa. Ông đã vận dụng lí thuyết về trường nghĩa của các tác giả nước ngoài để xây dựng những quan niệm của mình về trường nghĩa. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là tập hợp những từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa [8, 171]. Quan điểm này lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho việc phân lập trường nghĩa. Đây là quan niệm có tính chất định hướng cho các quan niệm về trường nghĩa của các tác nhà Việt ngữ khác sau ông.
Luận văn của chúng tôi lấy quan niệm về trường nghĩa của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở lí thuyết để nghiên cứu.
1.2. Phân loại trường nghĩa
Dựa vào hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ là quan hệ dọc (quan hệ trực tuyến, quan hệ hình) và quan hệ ngang (quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính, quan hệ ngữ đoạn), Đỗ Hữu Châu chia trường nghĩa tiếng Việt thành các loại khác nhau: trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm (hai trường nghĩa dựa vào quan hệ dọc); trường nghĩa tuyến tính (dựa vào quan hệ ngang) và trường nghĩa liên tưởng (dựa vào sự kết hợp giữa quan hệ dọc và quan hệ ngang).
1.2.1. Trường nghĩa biểu vật
Trường nghĩa biểu vật là “một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật” [8; 172]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay: cổ tay, bàn tay, cánh tay, ngón tay, hoa tay, vân tay, búp măng, dùi đục, cầm, nắm, xé… Đây là các đơn vị từ có cùng phạm vi biểu vật tay.