thường hoặc trả tiền bảo hiểm trong trường hợp rủi ro xảy ra đối với NĐBH do một trong các nguyên nhân sau:
+ Hành vi phạm tội và/hoặc hành vi cố ý vi phạm pháp luật khác của NĐBH;
+ Hành vi cố ý của NĐBH, BMBH và hoặc/người thụ hưởng;
+ Hành vi tự tử của NĐBH khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực dưới 24
tháng;
+ Do các hiện tượng thời tiết như sóng thần, động đất, núi lửa, lũ, lụt, bão;
chiến tranh, nội chiến, nổi loạn và các hiện tượng khách quan khác có tính chất thảm họa.
Đối với những trường hợp thuộc loại thứ tư, cần phải có một cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức có thẩm quyền đưa ra định nghĩa cụ thể về từng trường hợp loại trừ cũng như đưa ra tuyên bố chính thức khi các trường hợp loại trừ nói trên xảy ra, việc DNBH có được áp dụng điều khoản loại trừ hay không trên cơ sở đánh giá mức độ ảnh hưởng.
- Bổ sung quy định về trình tự và thủ tục giao kết hợp đồng BHNT
Hiện nay LKDBH cũng như các văn bản pháp luật khác không có quy định về trình tự và thủ tục giao kết hợp đồng BHNT. Như đã đề cập tại Chương I và Chương II, hợp đồng BHNT là loại hợp đồng có các đặc điểm rất riêng, có nhiều chủ thể tham gia giao kết với quy trình giao kết tương đối phức tạp. Quy trình giao kết hợp đồng BHNT được đề cập trong Chương II là sự khái quát hóa từ thực tiễn giao kết hợp đồng của các DNBH trên thế giới. Vì thế, để việc xác định tính hợp pháp của hợp đồng được dễ dàng hơn và đánh giá tính trung thực của các bên trong giao kết hợp đồng bảo hiểm, LKDBH cần có nội dung về trình tự và thủ tục giao kết hợp đồng BHNT. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm cần có quy định chi tiết hơn về các thủ tục, giấy tờ có liên quan trong quá trình giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhằm tạo thuận lợi cho việc giao kết trên thực tế. Bên cạnh đó, cũng cần quy đinh rõ về các yêu cầu và nguyên tắc xây dựng mẫu Giấy yêu cầu bảo hiểm của DNBH, trách nhiệm cung cấp thông tin khi kê khai Giấy yêu cầu bảo hiểm của BMBH và NĐBH. Tuy nhiên, theo tác giả, quy định về trình tự thủ tục giao kết
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Trường Hợp Hợp Đồng Bhnt Vô Hiệu Khác
- Thời Hiệu Yêu Cầu Tòa Án Tuyên Bố Hợp Đồng Bhnt Vô Hiệu
- Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm
- Giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và vấn đề vô hiệu của hợp đồng - 16
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
không có nghĩa là đặt thêm quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Quy định này cần được xây dựng dưới góc độ ràng buộc trách nhiệm của các bên như (i) trách nhiệm cung cấp thông tin của BMBH; (ii) trách nhiệm tư vấn, giải thích cho khách hàng của DNBH.
- Bổ sung quy định về thời gian xem xét hợp đồng
Như đã đề cập tại Chương II, thời gian xem xét hợp đồng của BMBH sau khi hợp đồng đã phát sinh hiệu lực là một trong các điểm đặc biệt của hợp đồng BHNT, là một giai đoạn không thể thiếu trong giao kết hợp đồng BHNT. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của BMBH – những người chỉ có thể tiếp xúc với Điều khoản mẫu và các phụ lục điều kiện hợp đồng sau khi hợp đồng đã được phát hành, pháp luật các nước đều có quy định về nội dung này. Tuy nhiên, pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam lại chưa có điều luật nào đề cập đến khía cạnh này mà chỉ thông qua cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính để kiểm soát các giao dịch BHNT, buộc các DNBH ghi nhận cam kết này trong các điều khoản sản phẩm bảo hiểm mẫu. Thiết nghĩ, để việc thực hiện được thống nhất giữa các DNBH cũng như ghi nhận quyền lợi của người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm, các nhà làm luật cần quy định thời hạn xem xét hợp đồng bằng một quy phạm pháp luật trong LKDBH.
- Bổ sung quy định về bảo hiểm tạm thời
LKDBH hiện hành không quy định về bảo hiểm tạm thời. Phù hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật của nhiều nước trên thế giới, trong các quy tắc, điều khoản bảo hiểm của một số DNBH đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ hiện đang bán trên thị trường Việt Nam cũng có nội dung này nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng mặc dù mỗi một doanh nghiệp lại có quy định khác nhau về thời điểm bắt đầu của bảo hiểm tạm thời, phạm vi bảo hiểm tạm thời. Vì vạy, để đảm bảo cơ sở pháp lý và áp dụng thống nhất quy định bảo hiểm tạm thời tại Việt Nam, LKDBH cần bổ sung quy định này.
- Chế tài đối với trường hợp trục lợi bảo hiểm:
Hiện nay LKDBH cũng như các văn bản pháp luật khác đều chưa đưa ra được chế tài đối với trường hợp trục lợi bảo hiểm – vấn nạn lớn của nền tài chính
bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Khi phát hiện trục lợi bảo hiểm, các DNBH chỉ có thể từ chối giải quyết quyền lợi bảo hiểm, hoàn hoặc không hoàn lại phí cho BMBH (tùy theo quy định tại điều khoản mẫu của từng DNBH), từ chối cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho BMBH, NĐBH hoặc Người thụ hưởng đã có hành vi trục lợi bảo hiểm. Vì thế, pháp luật kinh doanh bảo hiểm cần quy định các biện pháp xử lý đối với những người gây tổn thất cho doanh nghiệp bảo hiểm thông qua trục lợi bảo hiểm, góp phần thúc đẩy sự lớn mạnh bền vững của thị trường bảo hiểm còn non trẻ tại Việt Nam.
3.2.2. Về hợp đồng BHNT vô hiệu
- Về hậu quả pháp lý của hành vi “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm” hoặc “hành vi lừa dối”.
Hành vi “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm” được quy định tại Điều 19 cũng tương tự như “hành vi lừa dối” được quy định tại Điều 22 nhưng hậu quả pháp lý được quy định khác nhau tại LKDBH 2000. Điều 19 quy định: DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi BMBH có một trong những hành vi sau đây: a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường;
b) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho DNBH theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 19 của Luật này. Trong trường hợp DNBH cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì BMBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; DNBH phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho BMBH do việc cung cấp thông tin sai sự thật. Điều 22 lại quy định nếu BMBH hoặc DNBH có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng vô hiệu. Hậu quả pháp lý quy định tại Điều 22 phù hợp với quy định của BLDS 2005 về hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối. Tuy nhiên Điều 19 LKDBH 2000 cũng là một quy định có cơ sở từ góc độ luật chuyên ngành. Tuy nhiên sự tồn tại của hai điều khoản này trong LKDBH 2000 gây nên sự không thống nhất trong việc
áp dụng pháp luật. Các DNBH khi phát hiện có “hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm” – thường là BMBH kê khai không đúng hoặc không kê khai các thông tin liên quan đến bệnh lý, tiền sử sức khỏe, phẫu thuật, tai nạn của NĐBH thì DNBH sẽ áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 19 LKDBH 2000 để đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên khi BMBH khởi kiện ra Tòa thì Tòa án thường giải quyết trường hợp vi phạm trách nhiệm kê khai trung thực theo hướng hợp đồng vô hiệu do giả tạo và buộc DNBH hoàn lại 100% phí bảo hiểm cho BMBH. Vì thế, sự tồn tại của Điểm a Khoản 2 Điều 19 LKDBH 2000 và Điểm d Khoản 1 Điều 22 LKDBH 2000 là một mâu thuẫn trong LKDBH 2000, không được sửa đổi, khắc phục trong LKDBH 2010. Các nhà làm luật Việt Nam cần xem xét và quy định lại để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, hạn chế rủi ro pháp lý cho DNBH cũng như BMBH. Cần quy định rõ trường hợp nào thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ giải quyết theo hướng xử lý hoàn phí do hợp đồng vô hiệu (Điểm d khoản 1 Điều 22) trường hợp nào thì đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng (Điểm a Khoản 2 Điều 19). Nên quy định đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng khi BMBH hoặc/ và NĐBH có hành vi cung cấp thông tin sai sự thật mà nếu biết được thông tin đấy doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối chấp nhận bảo hiểm, trì hoãn chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo hiểm với mức phí cao hơn.
- Bổ sung trường hợp vô hiệu của hợp đồng BHNT
Khoản 2 Điều 38 LKDBH 2000 quy định như sau: Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của những người sau đây: a) Người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó đồng ý bằng văn bản; b) Người đang mắc bệnh tâm thần. Như vậy, có thể nhận thấy đây là 02 quy định cấm của LKDBH 2000. Sở dĩ các nhà làm luật quy định như trên vì không thể kinh doanh tính mạng, sức khỏe của (i) người chưa thành niên mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật và (ii) người đang mắc bệnh tâm thần nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể có khiếm khuyết về năng lực hành vi dân sự. Chủ thể dưới 18 tuổi còn có ngoại lệ để tham gia bảo hiểm (khi được người đại diện
theo pháp luật chấp thuận bằng văn bản) còn người đang mắc bệnh tâm thần thì không có ngoại lệ này.
Bên cạnh đó, như đã đề cập tại phần nguyên tắc giao kết hợp đồng BHNT, bên cạnh nguyên tắc “quyền lợi có thể được bảo hiểm”, nguyên tắc “sự đồng ý bằng văn bản của NĐBH” là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của việc giao kết hợp đồng BHNT. Nếu vi phạm một trong hai nguyên tắc cơ bản này thì hợp đồng BHNT không thể có hiệu lực trên thực tế. Điều 22 LKDBH 2000 chỉ có quy định về trường hợp vô hiệu do BMBH không có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Vì vậy, cần bổ sung vào Điều 22 các trường hợp hợp đồng BHNT vô hiệu do
(i) Giao kết BHNT cho trường hợp chết của NĐBH mà không có sự đồng ý bằng văn bản của NĐBH hoặc người đại diện theo pháp luật nếu NĐBH dưới 18 tuổi và
(ii) Giao kết hợp đồng BHNT cho trường hợp chết của NĐBH đang mắc bệnh tâm thần.
- Về quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện HĐBH vô hiệu trong trường hợp
(i) BMBH không có quyền lợi có thể được bảo hiểm; (ii) và tại thời điểm giao kết HĐBH đối tượng bảo hiểm không tồn tại hoặc (iii) tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Ba trong bốn trường hợp cụ thể hợp đồng bảo hiểm vô hiệu được quy định nói trên tại Điều 22 LKDBH 2000 đều thuộc nhóm vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Đây là các trường hợp vô hiệu tuyệt đối. LKDBH 2000 không quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện HĐBH vô hiệu trong những trường hợp này. Trong khi đó, Điều 30 LKDBH 2000 quy định: Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp. Việc thiếu quy định về thời hiệu khởi kiện trong các trường hợp vô hiệu nói trên cũng như việc không ghi nhận ba trường hợp đó là các trường hợp vô hiệu tuyệt đối hoặc vi phạm điều cấm của pháp luật sẽ gây lung túng cho những bên tranh chấp (DNBH hoặc BMBH) trong việc khởi kiện và người áp dụng pháp luật – các Thẩm phán của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết tranh chấp. Rất có thể các bên trong quan hệ hợp đồng sẽ hiểu thời hiện khởi kiện bất kỳ lý do nào đối với hợp đồng BHNT là 03 năm, vì thế
mà có thể lỡ cơ hội khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp nói trên. Vì thế, tác giả cho rằng các nhà làm luật cần quy định rõ ràng thời hiệu khởi kiện HĐBH vô hiệu trong trường hợp (i) BMBH không có quyền lợi có thể được bảo hiểm; (ii) và tại thời điểm giao kết HĐBH đối tượng bảo hiểm không tồn tại hoặc (iii) tại thời điểm giao kết hợp đồng là không xác định thời hạn.
- Về việc xác định mức độ thiệt hại và trách nhiệm bồi thường do vi phạm quy định giao kết hợp đồng
Theo quy định của BLDS 2005, hậu quả pháp lý của HĐBH vô hiệu là (i) hợp đồng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập (thời điểm giao kết); (ii) khi hợp đồng bị vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản, giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật; bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. BLDS 2005 không quy định thiệt hại ở đây được hiểu như thế nào và bao gồm những gì.
Như vậy, từ quy định trên của BLDS 2005, theo tác giả khi hợp đồng bảo hiểm bị tuyên là vô hiệu thì về mặt nguyên tắc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải hoàn lại số phí bảo hiểm đã thu cho BMBH đồng thời không phải chịu trách nhiệm trước những rủi ro xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu do lỗi của DNBH thì ngoài việc hoàn lại số phí bảo hiểm đã thu, DNBH phải trả thêm tiền lãi cho số phí bảo hiểm đó. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu do lỗi của BMBH thì DNBH có quyền khấu trừ các chi phí hợp lý đã bỏ ra cho việc giao kết hợp đồng (chi phí hoa hồng trả cho đại lý, chi phí hoạt động của doanh nghiệp…). Tuy nhiên, hiện tại không có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về việc xử lý hợp đồng vô hiệu đặc biệt là những hợp đồng đặc thù như hợp đồng bảo hiểm cũng như nguyên tắc xác định mức độ thiệt hại và trách nhiệm bồi thường khi một trong các bên vi phạm nguyên tắc giao kết khiến hợp đồng BHNT vô hiệu. Do vậy, khi tranh chấp xảy ra không có một đường lối thống nhất chung cho việc
xử lý HĐBH vô hiệu dẫn đến tình trạng nhiều vụ tranh chấp có cùng bản chất, hiện tượng và thời điểm phát sinh nhưng lại có những bản án khác nhau bởi việc xác định mức độ thiệt hại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các thẩm phán. Vì thế, pháp luật kinh doanh bảo hiểm cần quy định về cách xử lý hợp đồng BHNT vô hiệu, nguyên tắc xác định mức độ thiệt hại và trách nhiệm bồi thường khi một trong các bên vi phạm nguyên tắc giao kết khiến hợp đồng BHNT vô hiệu.
PHẦN KẾT LUẬN
Thị trường bảo hiểm Việt Nam thời gian qua đã phát triển với tốc độ khá nhanh và còn có nhiều tiềm năng. Nhà nước Việt Nam đã và đang thực hiện chiến lược thúc đẩy dịch vụ thị trường tài chính trong đó có thị trường bảo hiểm cả về quy mô và chất lượng.
Để thị trường BHNT phát triển an toàn, vững chắc, lành mạnh, hiệu quả và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên như mục tiêu Nhà nước Việt Nam đặt ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, pháp luật về BHNT nói chung trong đó có pháp luật về giao kết hợp đồng BHNT và hợp đồng BHNT vô hiệu cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
Trong phạm vi luận văn thạc sỹ của mình, trên cơ sở lý luận khoa học và sự đánh giá thực trạng pháp luật, tôi đã đưa ra một số bất cập của pháp luật về giao kết hợp đồng BHNT và hợp đồng BHNT vô hiệu, từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện. Tôi mong nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp và các độc giả để tôi tiếp tục hoàn chỉnh luận văn trong thời gian gần nhất.