Khuyến khích các tổ chức cá nhân thành lập cơ sở phát hành phim; nếu cơ sở đầu tư xây dựng rạp, đầu tư sản xuất phim thì được trực tiếp xuất nhập khẩu phim nhựa và băng đĩa hình để phát hành trong phạm vi cả nước.
Thứ ba, về phổ biến phim:
+ Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng rạp, cụm rạp chiếu phim kết hợp với các hoạt động kinh doanh khác. Được thuê lại rạp, liên doanh cải tạo, đầu tư xây dựng nâng cấp rạp hiện có của nhà nước để chiếu phim.
+ Ưu tiên đầu tư đối với các đơn vị chiếu phim thuộc các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa hạch toán kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Thành lập Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng hoạt động sự nghiệp có thu thực hiện nhiệm vụ công ích chiếu phim lưu động phục vụ đồng bào dân tộc, miền núi trên địa bàn tỉnh.
+ Ưu đãi các tổ chức, cá nhân tham gia phục vụ chiếu phim miền núi, vùng cao, biên giới hải đảo, được thành lập các đội chiếu phim lưu động, được tham gia thực hiện nhiệm vụ công ích theo yêu cầu của địa phương và được tài trợ chi phí buổi chiếu phim bình đẳng về mọi mặt với các đơn vị chiếu phim công lập.
3.2.3.3. Ban hành các chính sách ưu đãi, tạo môi trường hấp dẫn và thông thoáng trong sáng tạo tác phẩm và kinh doanh phù hợp với đặc thù của điện ảnh để thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh
Những khó khăn khi bước vào cơ chế thị trường khiến điện ảnh lao đao nhưng do nhà nước đã ban hành một số chính sách trong thời gian qua nên phần nào đã nâng đỡ, tạo điều kiện cho ngành điện ảnh từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng. Nhiều mặt hoạt động đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị nhà nước giao, giữ gìn được đội ngũ cán bộ làm nghề, động viên các nghệ sĩ điện ảnh nỗ lực đóng góp sức mình vào sự nghiệp phát triển ngành.
Tuy nhiên nhiều chế độ chính sách đặc thù cho hoạt động văn hoá nghệ thuật trong đó có điện ảnh không thích ứng trong điều kiện hiện tại làm cho điện ảnh hoạt động trì trệ kém hiệu quả. Vì vậy các chính sách sách này cần sớm được thay đổi cho phù hợp với thực tế như:
Chế độ nhuận bút tác giả cần sửa đổi tăng lên cho các thành phần tham gia sáng tạo tác phẩm điện ảnh để khuyến khích sáng tạo, làm căn cứ chi trả đối với tác phẩm điện ảnh do ngân sách đặt hàng tài trợ và làm cơ sở thoả thuận chi trả thù lao đối với các tác phẩm điện ảnh sản xuất bằng các nguồn vốn khác.
Thực hiện nhiều hình thức chi trả nhuận bút tác giả như mua đứt bản quyền; chi trả nhuận bút theo sự thoả thuận giữa người sử dụng với tác giả kịch bản; coi nhuận bút là một khoản tiền góp vốn đầu tư của tác giả để tham gia sản xuất phim... nhằm thiết thực nâng cao chất lượng sản phẩm.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam đến năm 2010 - 19
- Giải pháp thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam đến năm 2010 - 20
- Giải pháp thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam đến năm 2010 - 21
- Giải pháp thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam đến năm 2010 - 23
- Giải pháp thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam đến năm 2010 - 24
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Xây dựng và ban hành chế độ đánh giá xếp loại chất lượng phim và chế độ thưởng theo chất lượng phim hàng năm để khuyến khích những tác phẩm tốt, những bộ phim có chất lượng kỹ thuật cao, đặc biệt đối với những phim có nội dung tư tưởng nghệ thuật tốt, tính hấp dẫn cao.
Có chế độ thưởng cuối năm (hoặc tài trợ sau khi phim hoàn thành) đối với những phim đạt được doanh thu cao nhất trong năm để khuyến khích các thành phần kinh tế tự đầu tư vốn sản xuất phim tạo ra những bộ phim đúng định hướng tư tưởng, ăn khách, giải trí lành mạnh đạt cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Các chính sách khác như tiền lương ưu đãi đối với nghệ thuật, phục hồi phụ cấp thanh sắc cho diễn viên; chế độ phụ cấp nặng nhọc, độc hại cho đạo diễn, quay phim, in tráng phim, bảo quản phim; chế độ phụ cấp làm đêm, đi rừng núi, mang vác, phụ cấp thuyết minh phim theo đặc thù ngành nghề cho các đội chiếu bóng lưu động…
Xây dựng và ban hành mới những quy trình quy phạm, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật ngành. Tổ chức lại hệ thống KCS trong ngành điện ảnh. Kiểm tra giám sát thực hiện quy chế quản lý nhà nước về kỹ thuật điện ảnh.
Đầu tư cho công tác thông tin khoa học kỹ thuật ngành để có thể cung cấp cặp nhật những thông tin mới về tiến bộ khoa học kỹ thuật của điện ảnh thế giới. Đầu tư đúng mức cho công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật điện ảnh.
Cần xúc tiến thành lập một Công ty hay Trung tâm dịch vụ tư vấn hợp tác làm phim để chuyên môn hoá và thúc đẩy trao đổi, hợp tác quốc tế với điện ảnh thế giới. Tổ chức này có chức năng hướng dẫn về pháp lý và làm dịch vụ cho các cơ sở trong và ngoài nước có hoạt động dịch vụ và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực điện ảnh.
Ban hành các chính sách kinh tế tài chính phù hợp với đặc thù ngành điện ảnh Thực sự coi điện ảnh là một ngành sản xuất kinh doanh hàng hoá đặc biệt để thực hiện chính sách ưu đãi đối với sản xuất và phổ biến phim, nhằm thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh đến 2010 có hiệu quả như :
- Bảo vệ bản quyền phim, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, tích cực ngăn chặn việc ăn cắp bản quyền.
- Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh nhằm thu hút nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, hỗ trợ cho sáng tác, tuyển chọn kịch bản, hỗ trợ sản xuất phim thể nghiệm, thưởng cho tác phẩm điện ảnh có giá trị tư tưởng nghệ thuật cao, hỗ trợ đạo diễn phim đầu tay, hỗ trợ đào tạo khuyến khích tài năng trẻ...
- Cấp vốn lưu động cho các hãng phim thuộc khu vực nhà nước hoạt động công ích trong ngành điện ảnh, giúp đơn vị hoàn thành nghĩa vụ công ích và chủ động trong sản xuất kinh doanh.
- Trong mô hình cụm rạp, lấy thu từ các hoạt động dịch vụ khác tự bù lỗ cho hoạt động chiếu phim đặc biệt là chiếu các phim phục vụ nhiệm vụ chính trị vì vậy các hoạt động kinh doanh tổng hợp trong rạp cụm chỉ thu một loại thuế suất ưu đãi tính trên doanh thu (thu chủ yếu để quản lý).
- Ưu tiên dành quỹ đất tại các khu trong khi quy hoạch các khu đô thị, khu dân cư để xây dựng rạp chiếu phim. Miễn trả tiền sử dụng đất và tiền thuế đất cho các rạp chiếu phim và các rạp chiếu phim kinh doanh tổng hợp vì đây là các cơ sở hoạt động phục vụ phúc lợi công cộng cho toàn xã hội.
- Miễn thuế nhập khẩu thiết bị chuyên dùng cho ngành điện ảnh. Không thu thuế nhập khẩu đối với phim nhựa dạng nguyên liệu và các vật tư chuyên dùng để khuyến khích đầu tư sản xuất phim nhựa.
3.2.3.4. Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh từ ngân sách nhà nước. Cải tiến công tác lập, trình duyệt và thẩm định dự án đầu tư cho điện ảnh
Thứ nhất, cần định hướng rõ khu vực nào do nhà nước đầu tư, khu vực nào thuộc các thành phần kinh tế khác trong xã hội có thể làm . Việc xác định chính sách trong đầu tư phát triển như trên nhằm tập trung có trọng điểm nguồn vốn ngân sách cho những công trình, những lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn cần đầu tư dứt điểm trong một thời gian nhất định tạo cơ sở hạ tầng cho ngành điện ảnh (như hiện đại hóa công nghệ sản xuất phim, đầu tư trường quay hiện đại, đào tạo nâng cao). Các hoạt động khác như vốn sản xuất các bộ phim, vốn đầu tư cho rạp chiếu phim, vốn nhập khẩu phim… Khai thác từ các nguồn vốn xã hội hóa hoạt động điện ảnh nhằm tiết kiệm và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Thứ hai, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là có hạn, để đầu tư phát triển điện ảnh tiết kiệm và có hiệu quả, các dự án đầu tư cần được xem xét cân đối trong toàn ngành, nên tập trung thông qua một đầu mối, đầu tư theo đúng quy trình công nghệ hiện đại và
đồng bộ trong sản xuất và phổ biến phim, tránh tình trạng đầu tư mang tính cục bộ dẫn đến đầu tư chồng chéo dẫn đến có việc nhiều nơi cùng đầu tư, có dự án đáng phải đầu tư thì không nơi nào làm (vì nhiều lý do khác nhau), đẫn đến đầu tư không đồng bộ, lãng phí vốn đồng thời không phát huy hiệu quả đầu tư.
Thứ ba, quy định chế độ trách nhiệm đối với việc sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách để tài trợ đặt hàng các tác phẩm điện ảnh khi hoàn thành công chiếu không đạt cả về hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Cách thức đặt hàng tài trợ hiện tại nhiều cấp có quyền nhưng cũng đồng thời nhiều cấp không chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng sau đầu tư. Việc đặt hàng tài trợ phải thực hiện trực tiếp đối với tác phẩm vì vậy:
- Kịch bản được tuyển chọn đặt hàng, tài trợ theo tiêu chí xác định phải được tuyển chọn từ các hãng phim nhà nước, hãng phim tư nhân và trực tiếp từ cá nhân tác giả kịch bản để có điều kiện lựa chọn kịch bản tốt nhất đưa vào sản xuất. Kịch bản được chọn sản xuất phim cần được thông qua đấu thầu sản xuất phim đó là: Lựa chọn đạo diễn phù hợp; lập phương án kinh tế dựa trên kịch bản phân cảnh để chọn phương án sản xuất tối ưu từ bộ phim trên giấy đến bộ phim bằng hình ảnh.
- Phải có cơ quan chịu trách nhiệm ký hợp đồng đặt hàng, tài trợ sản xuất phim với cơ quan nhận vốn sản xuất phim, mọi điều khoản thông qua hợp đồng kinh tế từ khâu sản xuất đến phát hành phim.
- Đơn vị nhận vốn sản xuất phim phải chịu trách nhiệm từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình từ sản xuất đến phát hành và phổ biến phim thông qua phương án đấu thầu nhằm gắn liền giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tránh tình trạng phim sản xuất ra không có người chịu trách nhiệm phổ biến đến khán giả (Phim bỏ kho).
- Cần ban hành lại hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật trong ngành điện ảnh (Ban hành cách đây 30 năm đã quá lạc hậu) để việc chấp hành dự toán chi phí sản xuất phim nghiêm túc, đúng mục đích theo quy định của Luật ngân sách hiện hành.
3.2.3.5. Hoàn thiện Luật điện ảnh và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
Đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, yêu cầu của đất nước và công chúng rất cao, đòi hỏi phải nhanh chóng hiện đại hoá để phát triển ngành; từ nhiều năm qua điện ảnh được Nhà nước dành nhiều ưu đãi trong chính sách phát triển nhưng chưa chuyển đổi, thích ứng kịp thời với cơ chế mới vận nền kinh tế của đất nước, kỹ năng, kỹ thuật sản xuất
phim lạc hậu, sản xuất bị thu hẹp, tư tưởng trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước còn nặng nề dẫn đến trì trệ, xơ cứng trong hoạt động.
Nghị định 48/CP ngày 17/7/1995 của Chính phủ ban hành “Về Tổ chức và hoạt động Điện ảnh”, là văn bản pháp quy cao nhất đối với ngành điện ảnh cho đến nay. Nghị định 48/CP cùng với sự ra đời cùng với Chương trình mục tiêu “Củng cố và phát triển điện ảnh Việt Nam” của Chính phủ được triển khai thực hiện đã từng bước chống suy thoái và trượt dốc, các cơ sở hoạt động điện ảnh dần ổn định về tổ chức và tạo bước phát triển mới cho ngành. Tạo điều kiện cho nhiều hãng phim được thành lập, nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước bước đầu tham gia hoạt động điện ảnh, đặc biệt là sự ra đời của các hãng phim tư nhân trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, trong hơn 10 năm qua từ khi ban hành Nghị định 48/CP, đất nước đổi mới và phát triển không ngừng nhưng điện ảnh Việt Nam vẫn trong tình trạng kém phát triển so với điện ảnh các nước trong khu vực và trên thế giới, quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ, kỹ thuật sản xuất phim lạc hậu, số lượng phim sản xuất hàng năm thấp, chất lượng nghệ thuật và kỹ thuật ít được nâng lên, phim thiếu hấp dẫn và chưa đáp ứng được nhu cầu của mọi tầng lớp khán giả. Trong khi các phương tiện nghe nhìn và Truyền hình Việt Nam ra đời sau đã có những bước phát triển nhảy vọt và hoạt động rất hiệu quả, điện ảnh chỉ có thể phát triển được khi biết tận dụng mọi ưu thế phát triển của kỹ thuật mới, tạo nên một ngành công nghiệp điện ảnh hiện đại kết hợp với các yếu tố văn học, nghệ thuật, âm nhạc, phát huy năng lực sáng tạo nghệ thuật điện ảnh;
Trước xu thế hội nhập quốc tế để phát triển không chỉ về kinh tế mà trong cả lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của đất nước, Nghị định 48/CP ngày 17/7/1995 của Chính phủ ban hành từ năm 1995 đã trở nên bất cập, nhiều chính sách trong Nghị định mất tính khả thi, không còn phù hợp với chủ trương đổi mới và chính sách xã hội hoá của Đảng và nhà nước, hạn chế sự cởi mở năng động của cơ sở điện ảnh, thiếu các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong thực tiễn hoạt động của ngành;
Cũng trong 10 năm qua, Luật xuất bản, Luật báo chí, Luật sở hữu trí tuệ (trước là Luật bản quyền), Luật di sản văn hoá được ban hành đã phát huy vai trò rất lớn trong công cuộc đổi mới đất nước. Vì vậy Luật điện ảnh ban hành để đồng bộ với hệ thống pháp luật quản lý trong lĩnh vực văn hoá - thông tin, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn cần sớm được luật hoá, đảm bảo môi trường thông thoáng và sự ổn định bền vững trong chính sách đầu tư phát triển ngành, phù hợp với những cam kết của Việt Nam với tổ chức
thương mại thế giới WTO, góp phần xây dựng và phát triển nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Luật điện ảnh Việt Nam nhằm thể chế hoá đường lối quan điểm của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực điện ảnh. Xây dựng hành lang pháp lý để phát triển điện ảnh Việt Nam trở thành ngành công nghiệp dịch vụ giải trí hiện đại, trình độ sản xuất phim tiên tiến; rút ngắn khoảng cách tụt hậu của điện ảnh Việt Nam, từng bước đưa điện ảnh phát triển ngang bằng với trình độ phát triển của điện ảnh khu vực và trên thế giới, tạo nguồn thu và hỗ trợ các ngành khác cùng phát triển.
Các văn bản dưới Luật như Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật khác cần được ban hành đồng bộ với Luật điện ảnh để Luật điện ảnh có hiệu lực thi hành trên thực tế, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, tự chủ cho các cơ sở hoạt động điện ảnh để Luật mau chóng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả.
Ngày 29/6/2006 tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khoá XI đã biểu quyết thông qua Luật điện ảnh. Đây là bộ luật đầu tiên được ban hành đối với một ngành nghệ thuật, thể hiện sự quan tâm lớn nhất, tạo cơ hội phát triển ngành điện ảnh cả trước mắt và lâu dài.
Luật điện ảnh đã ban hành bao gồm 8 chương, 55 điều, với nội dung điều chỉnh hoạt động điện ảnh của các tổ chức và cá nhân hoạt động sản xuất, phát hành và phổ biến phim trên lãnh thổ Việt Nam. Điểm thể hiện nổi bật nhất trong luật là chính sách đầu tư của nhà nước nhằm xây dựng và phát triển nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mở rộng các thành phần tham gia hoạt động điện ảnh tiếp tục đẩy mạnh chủ trương xã hội hoá hoạt động điện ảnh, từ sản xuất đến phát hành và phổ biến phim. Tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nhà nước chỉ quản lý nội dung tác phẩm điện ảnh thông qua cấp giấy phép phổ biến phim. Thúc đẩy sự sáng tạo nghệ thuật điện ảnh, đổi mới cơ chế hoạt động và ổn định tổ chức, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp điện ảnh vươn mạnh ra nước ngoài và phát triển phù hợp với xu thế giao lưu và hội nhập quốc tế.
Ban hành Luật điện ảnh là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm đẩy mạnh sản xuất phim, phục vụ nhân dân, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của mọi thành viên trong xã hội. Giới thiệu điện ảnh Việt Nam ra thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới qua tác phẩm điện ảnh. Phát triển nền điện ảnh Việt Nam đa dạng, phong phú đạt hiệu quả kinh tế và xã hội trong kỷ cương, tăng cường hội nhập để phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu "Xây dựng và phát triển nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc".
Tuy nhiên, nhìn tổng quan Luật điện ảnh vẫn bộc lộ chính sách bao cấp rất lớn đối với ngành từ đào tạo, sản xuất đến phổ biến phim, sẽ tiếp tục tạo sự trì trệ trong các hãng
phim do nhà nước thành lập, giảm tính cạnh tranh và hạn chế sự phát triển lành mạnh của thị trường điện ảnh (Điều 5: Chính sách của nhà nước về đầu tư phát triển điện ảnh; Điều 6: Chính phủ thành lập quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh; Điều 24: Chính sách đặt hàng sản xuất phim; Điều 34: Tài trợ chiếu phim lưu động…).
Một số điều Luật còn lúng túng chưa đề cập đến vấn đề chuyển đổi các doanh nghiệp điện ảnh nhà nước và các chính sách về vấn đề này. Chưa cặp nhật những thông tin về các cam kết quốc tế của Việt Nam nên một số điều ban hành trong Luật điện ảnh đã không phù hợp với các cam kết khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Luật điện ảnh sẽ phải tiến hành sửa đổi cho phù hợp và tháo gỡ khó khăn về quản lý và hoạt động điện ảnh trong hiện tại (Luật quy định về hạn ngạch nhập khẩu phim; Chính sách tài trợ cho sản xuất và phổ biến phim; Không cho người nước ngoài thành lập và làm giám đốc cơ sở sản xuất phim tại Việt Nam).
*
* *
Chương 3 được trình bày về quan điểm, mục tiêu phát triển điện ảnh, quan điểm, mục tiêu về thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
Xuất phát từ việc phân tích thực trạng thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh giai đoạn 1995 - 2005 ở chương 2, kết hợp với những căn cứ khoa học để đưa ra các dự báo về nhu cầu vốn đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam đến 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
Nêu quan điểm về đầu tư phát triển điện ảnh trên cơ sở đa dạng hoá hoạt động điện ảnh, đa phương hoá quan hệ hợp tác quốc tế trong hoạt động điện ảnh. Thu hút các nguồn vốn đầu tư lớn gắn liền với việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao. Đầu tư đồng bộ, đầu tư trọng điểm trên cơ sở hiện đại hoá công nghệ sản xuất phim. Tạo lập các yếu tố mới để thu hút vốn đầu tư. Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng phát triển, tăng cường thu hút nguồn vốn nước ngoài cho đào tạo, nâng cao nguồn lực con người.
Khẳng định vai trò chủ đạo và định hướng của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách trong đầu tư phát triển ngành. Tăng cường thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách theo chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động điện ảnh.
Đề xuất các giải pháp nhằm thu hút triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển điện ảnh trên cơ sở phân định nguồn vốn và khu vực ưu tiên tập trung vốn đầu tư, lựa chọn khâu trọng điểm mang tính đột phá đó là đầu tư hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ và đầu tư cho con người. Đa dạng hoá thành phần tham gia hoạt động điện ảnh,
đa dạng hoá loại hình hoạt động điện ảnh, đa dạng hoá ngành nghề điện ảnh, đa dạng hoá sản phẩm điện ảnh, đa phương hoá quan hệ hợp tác quốc tế. Đổi mới tổ chức quản lý và cơ chế chính sách để thu hút các nguồn vốn đầu tư.
KẾT LUẬN
Điện ảnh vừa là ngành nghệ thuật sản xuất ra sản phẩm mang tính tư tưởng, vừa là ngành công nghiệp dịch vụ giải trí. Điện ảnh có nhiệm vụ quan trọng là góp phần phát triển văn hoá xã hội của đất nước, mở mang nâng cao dân trí, vừa là một ngành kinh tế phải đương đầu trước những thử thách khắc nghiệt của thị trường.
Công nghệ kỹ thuật điện ảnh hiện đại và tiến bộ không ngừng, đầu tư cho phát triển điện ảnh Việt Nam là tất yếu và rất tốn kém. Để đáp ứng nhu cầu đầu tư hiện đại hoá ngành, cần xác định quan điểm và phương hướng đầu tư đúng đắn, lựa chọn các giải pháp thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho phát triển, tạo ra nhiều tác phẩm điện ảnh giàu bản sắc văn hoá Việt Nam, đạt giá trị nghệ thuật cao, hấp dẫn, lành mạnh, vừa giữ vững định hướng tư tưởng, vừa mau chóng phát huy được hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của ngành, xác định vai trò vị trí của điện ảnh trong phát triển kinh tế và đời sống xã hội, tham khảo kinh nghiệm đầu tưu phát triển điện ảnh của các nước, đề xuất các giải pháp về thu hút và sử dụng các nguồn vốn nhằm đầu tư phát triển điện ảnh Việt Nam ngay trong những năm đầu của thế kỷ XXI . Đề tài đã đạt được những kết quả sau đây:
1. Xác định những đặc điểm riêng của điện ảnh so với các ngành khác. Những đặc điểm này có tác dụng chi phối rất cơ bản đến việc xác định hướng đầu tư phát triển hiện đại hoá ngành điện ảnh trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng, khẳng định vai trò, vị trí của điện ảnh Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xác định điện ảnh là ngành sáng tạo nghệ thuật đồng thời là ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm dịch vụ giải trí, ngành kinh tế tạo thu nhập cao cho xã hội. Nêu quan điểm, phương hướng đầu tư phù hợp với tính chất đặc thù của điện ảnh để thúc đẩy phát triển ngành.
3. Tham khảo mô hình hoạt động và kinh nghiệm đầu tư phát triển điện ảnh của các nước trong khu vực và những nước có nhiều điểm tương đồng với điện ảnh Việt Nam trong cơ chế thị trường để rút ra bài học cho điện ảnh Việt Nam.