Hiện Trạng Về Du Lịch Sinh Thái Biển Tại Tỉnh Nam Định

lượng phù sa của năm con sông như là (sông Hồng, sông Trà Lý...) thường xuyên bồi đắp. Ở đây có hai hướng dòng chảy biển chính là hướng Đông Bắc vào mùa hè và hướng Tây Nam vào mùa Đông. Các dòng chảy này hoạt động kết hợp với nước của các con sông lớn đổ ra biển nên tạo ra sự lưu thông của nước biển ở đây, chất lượng nước biển khá tốt, các chỉ số lý, hóa đều thích hợp với quy chế bảo vệ môi trường đối với hoạt động du lịch trong quyết định 02/2003/QĐ - BTNMT.

+ Nồng độ oxy hoà tan (DO): Hàm lượng ôxy hoà tan trung bình trong khoảng 4,14 - 4,3mg/l, nằm trong giới hạn cho phép phát triển các loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng biển.

+ Giá trị pH: Nhìn chung giá trị pH vùng ven biển Nam Định nằm trong khoảng 8,06 – 8,45; trong sông là 7,3 và trong kênh là 6,9. Giá trị pH này vẫn nằm trong giới hạn cho phép trong quyết định 02 về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, giá trị này cũng đạt gần tới mức tối đa cho phép.

+ Nhu cầu oxy sinh hoá vùng ven biển (BOD5): Nồng độ BOD5 nhìn chung có giá trị nhỏ, phần lớn từ 1 - 3,64 mg/l. Giá trị này còn thấp so với chỉ tiêu chất lượng nước biển đối với một số hoạt động du lịch.

- Chất thải và rác thải: Theo báo cáo hiện trạng môi trường của tỉnh Nam Định năm 2010 về rác thải, phần đông ở khu vực nông thôn rác thải được đổ vào chuồng lợn làm phân, được đổ xuống hồ ao để chôn lấp chỗ trũng, túi ni lông, rác bẩn được vứt bừa bãi khắp dọc các trục đường giao thông nông thôn.

Một trong những vấn đề nan giải khác của vệ sinh nông thôn là vấn đề rác thải tại các chợ quê. Chợ là nơi người tập trung đông đúc, rau cỏ, thịt cá, gia súc, gia cầm, phân gia súc, túi ni lông... vương vãi khắp nơi, thông thường ở các khu vực này cũng chỉ có những người làm công tác vệ sinh quét chợ do dân tự cử, ăn lương trực tiếp từ dân, chưa có các biện pháp xử lý rác hợp vệ sinh, phần nhiều chỉ mới dừng lại ở khâu quét, thu gom và đổ vào một chỗ, chưa có công đoạn chôn lấp hay rắc vôi bột làm vệ sinh môi trường.

- Hiện trạng sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu và các chất bảo vệ thực vật: Theo báo cáo hiện trạng môi trường của tỉnh Nam Định năm 2010 trong tổng số lượng thuốc bảo vệ thực vật đã sử dụng, thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ 68,33% - 82,20%. Tuy nhiên, thuốc trừ sâu có khuynh hướng tăng chậm về số lượng và giảm dần tỷ lệ so với tổng lượng thuốc bảo vệ thực vật đã được sử dụng. Thuốc trừ bệnh chiếm từ

12,60% - 15,50% so với tổng số thuốc bảo vệ thực vật đã được sử dụng. Thuốc trừ cỏ có tỷ lệ 3,30% - 11,9%. Các nhóm thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và các thuốc khác hiện được sử dụng với số lượng ngày càng tăng.

Như vậy trên rau màu và lúa, việc vi phạm về liều lượng phun trên 50% là rất cao, đặc biệt là đối với rau màu: 60.29%. Số lần phun trên 2 lần/vụ chiếm trên 50%, đặc biệt còn thấy phun trên 5 lần/vụ (11.76% đối với rau màu) và kết hợp trên hai loại thuốc khi phun (66.17%). Sử dụng thuốc trừ sâu như vậy sẽ rất dễ gây cho người và gia súc bị ngộ độc.

Như vậy, có thể thấy hiện trạng môi trường tự nhiên ở đây còn rất tốt, các chỉ tiêu hoá, lý của chất lượng không khí, chất lượng nước đều phù hợp và cho phép phát triển một số loại hình du lịch như: du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch sinh thái, du lịch tham quan... theo như các chỉ tiêu về chất lượng môi trường trong quy định của quyết định 02/2003/QĐ-BTNMT về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch.

* Môi trường xã hội [39, 27]

Phát triển du lịch vùng ven biển Nam Định bên cạnh việc tạo hiệu quả to lớn về kinh tế như tăng thu nhập và nâng cao mức sống của người dân địa phương cũng cần quan tâm đên công tác bảo vệ môi trường bảo gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá xã hội của khu vực.

Có thể khẳng định rằng đối với xã hội, du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khoẻ và tăng cường sức sống cho người dân. Đối với cộng đồng dân cư địa phương, du lịch có tác dụng tạo điều kiện cho họ được tiếp xúc với các nền văn hoá mới, giúp thu hẹp khoảng cách giữa các cộng đồng người khiến họ trở nên gần gũi, thân thiện với nhau hơn. Qua hoạt động du lịch để tăng cường tình đoàn kết cộng đồng, nâng cao dân trí, phát huy những đức tính tốt đẹp mang bản chất người như giúp đỡ, tương trợ, chân thành với nhau…

Trong thời gian gần đây hoạt động du lịch cộng đồng của người dân trong vùng, hoạt động du lịch đang ngày một phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng thương mại - dịch vụ. Hầu hết cư dân trong phạm vi khu vực và các vùng lân cận đã và đang chuyển hướng sang kinh doanh các mặt hàng, dịch vụ du lịch. Được đánh giá là một ngành kinh tế có vị trí quan trọng, vì vậy du lịch được ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Theo báo cáo của địa phương và các nghiên cứu có

liên quan thì hoạt động du lịch đang dần có ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội ở vùng ven biển đặc biệt là khu vực bãi tắm Thịnh Long, Quất Lâm, khu vực vùng đệm VQG do thu hút được sự tham gia ngày càng rộng các đối tượng xã hội tham gia vào kinh doanh, dịch vụ.

Phát triển du lịch cũng góp phần nâng cao dân trí cho cộng đồng địa phương thông qua việc trích nguồn thu từ hoạt động du lịch để cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng xã hội, y tế, giáo dục cho địa phương.

Mức sống của cộng đồng dân cư sẽ được nâng cao hơn. Trong những năm tới hoạt động du lịch cộng đồng vùng ven biển sẽ góp phần tăng thu nhập cho người dân ở đây, cơ cấu lao động vùng ven biển này đang chuyển đổi dần theo hướng tăng nhanh số lượng lao động tham gia phục vụ du lịch, chất lượng của đội ngũ này cũng đang từng bước được cải thiện.

Các giá trị văn hoá truyền thống của cư dân vùng ven biển đang có xu hướng được khôi phục trở lại. Vùng ven biển Nam Định là khu vực giao thoa của nhiều văn hoá, nhiều tập tục sinh hoạt khác nhau (người theo đạo Thiên Chúa có vùng chiếm đến 80% dân số). Điều này vừa tạo nên những khó khăn cho công tác quản lý, song đồng thời cũng tạo nên một đặc điểm hấp dẫn đối với việc phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hoá nói riêng. Giá trị văn hoá bao trùm ở vùng ven biển vẫn là văn hoá vùng biển. Thời gian gần đây, chính quyền địa phương rất chú trọng việc đầu tư nâng cấp lễ hội truyền thống của cư dân.

Về công tác đảm bảo an ninh - trật tự an toàn xã hội: Trong những năm qua tại vùng ven biển Nam Định hầu như không xảy ra điểm nóng, tình hình trật tự an toàn xã hội được giữ vững, các vụ tranh chấp đều được nhanh chóng giải quyết kịp thời. Tình hình trật tự an toàn luôn được đảm bảo. Đây là một chuyển biến tích cực của chính quyền địa phương nhằm từng bước loại bỏ những vấn đề xã hội tiêu cực nảy sinh từ hoạt động phát triển du lịch như mại dâm, ăn xin, trẻ em lang thang trèo kéo khách du lịch…

Công tác vệ sinh môi trường đang dần từng bước được cải thiện. Phát triển du lịch đòi hỏi phải đảm bảo một môi trường trong sạch vì vậy chính quyền địa phương đã và đang phối hợp với các đơn vị khoa học công nghệ của tỉnh để từng bước đưa vào áp dụng công nghệ mới trong việc xử lý chất thải và vệ sinh môi trường.

Bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động du lịch cũng đã có những ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến môi trường xã hội vùng ven biển. Trước hết, du lịch đã làm tăng dần khoảng cách về mức sống của người dân vùng ven biển. Theo số liệu điều tra, thu nhập trung bình của người dân vùng ven biển chỉ bằng khoảng 1/7 thu nhập trung bình của nhóm người dân được tham gia dịch vụ du lịch ở khu vực thị trấn Thịnh Long, Quất Lâm. Đây là vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng vùng ven biển.

Tình trạng cò mồi, chèo kéo khách hiện nay, đặc biệt ở khu vực bãi tắm, cũng đang là nguyên nhân gây nên những xung đột trong bản thân cộng đồng sống trong vùng. Nếu vấn đề này không được giải quyết sẽ tạo nguy cơ tiềm ẩn tạo nên sự rạn nứt trong cộng đồng vốn rất gắn kết trước đây khi du lịch còn ít phát triển.

2.1.4. Đặc điểm thủy văn, hải văn [28, 122]

Ba huyện ven biển Nam Định thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, hệ thống sông ngòi ở đây vừa nhiều, vừa chằng chịt với hai hệ thống sông tự nhiên và sông đào. Các sông chảy trên địa phận nghiên cứu đều là đoạn hạ du và là cửa sông của các sông thuộc hệ thống sông Hồng. Vì vậy, ngoài tài nguyên nước nội tại (nước mưa rơi trên bề mặt, lượng nước trữ trong mạng lưới sông, suối, ao hồ của khu vực) còn một lượng nước lớn từ thượng nguồn qua vùng đổ ra biển.

- Chế độ sóng biển: Vào mùa hè các hướng sóng thịnh hành ngoài khơi là Nam, Tây – Nam và đông với tần suất dao động từ 40 – 75%, trong đó sóng hướng Nam chiếm tới 37%. Độ cao sóng trung bình ở đây rất thích hợp với phát triển du lịch sinh thái theo quyết định 02/2003/QĐ - BTNMT về quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch.

- Chế độ thuỷ triều: Vùng ven biển cửa sông đồng bằng sông Hồng có chế độ nhật triều khá thuần nhất, tính nhật triều thuần nhất giảm từ bắc xuống nam. Mực nước triều lớn nhất nhiều năm có thể đạt 4,0 m và thấp nhất khoảng 0,08 m. Số ngày triều cường từ 3 m trở lên có từ 152 – 176 ngày.

- Chế độ dòng chảy các đặc trưng của dòng chảy có sự phân hoá theo năm. Tốc độ dòng chảy đều nằm trong khả năng cho phép phát triển du lịch sinh thái, theo quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch .

- Thổ nhưỡng: Bờ biển Nam Định thoải, do phù sa bồi đắp tích tụ của các dòng sông: Điển hình sông Hồng và sông Trà Lý hàng năm đổ ra biển khoảng 55 triệu tấn/năm, nhờ thế hàng năm đất được bồi tụ, tiến ra biển từ 50-100m

2.2. Tiềm năng du lịch sinh thái biển Nam Định

Tài nguyên du lịch của vùng ven biển Nam Định (tự nhiên, nhân văn) tương đối phong phú, đa dạng bao gồm cả vùng ven biển, bãi biển, hồ, rừng, các di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng,... Đây là một lợi thế quan trọng, tạo tiền đề phát triển nhiều loại hình du lịch, trong đó có loại hình du du lịch sinh thái biển Nam Định góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành du lịch Nam Định trong những năm tới.

2.2.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên [38, 16]

* Tài nguyên du lịch tự nhiên

Tại vùng ven biển thuộc các huyện Giao Thuỷ và Hải Hậu đã hình thành 2 khu du lịch nghỉ mát tắm biển Quất Lâm và Thịnh Long với hệ thống cơ sở vật chât kỹ thuật đáp ứng nhu cầu ăn nghỉ của khách du lịch. Bên cạnh đó khu du lịch biển Rạng Đông cũng đã đươc phê duyệt quy hoạch chi tiết nhằm khai thác phát triển du lịch. Ngoài ra khu du lịch sinh thái VQG Xuân Thuỷ và một số điểm tham quan du lịch phụ cận đã được triển khai thực hiện các dự án đầu tư phát triển hạ tầng tôn tạo cảnh quan môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của khách thăm quan du lịch. Tình hình phát triển các khu du lịch biển cụ thể như sau:

2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn trong vùng

Văn hoá phi vật thể vùng ven biển Nam Định gồm: hệ thống kiến trúc truyền thống đan xen hoà quyện với các công trình kiến trúc hiện đại như Nhà bổi, nhà thờ cơ đốc, cảng cá, chợ chiều, khu thị tứ sầm uất, các điểm sản xuất nước mắm truyền thống, khu làm chậu hoa cây cảnh, các sản phẩm du lịch độc đáo (nem nắm, gạo tám thơm, ngao, hát dân ca...) cùng với tấm lòng rộng mở của người dân miền biển quen đối diện với biển trời bao la...” .

2.3. Hiện trạng về du lịch sinh thái biển tại tỉnh Nam Định

2.3.1. Tổng quan chung về du lịch Nam Định [40,23]

Nam Định là tỉnh đồng bằng ven biển nam châu thổ sông Hồng, cách thủ đô Hà Nội 90 km. Nam Định có điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội và những yếu tố nguồn lực thuận lợi để phát triển ngành du lịch với tốc độ nhanh, bền vững.

Có hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ và đường thuỷ nối liền với các địa phương, các vùng miền trong cả nước trong đó tuyến đường sắt xuyên Việt và tuyến quốc lộ 10 chạy qua. Ngoài ra tuyến sông Hồng nối thủ đô Hà Nội với Nam Định và các tỉnh phía nam đồng bằng Bắc Bộ là tuyến du lịch đường sông có tiềm năng khai thác góp phần làm đa dạng hoá các loại hình cũng như sản phẩm du lịch.

Có nguồn tài nguyên du lịch đa dạng phong phú bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn có khả năng tổ chức các loại hình du lịch văn hoá, du lịch sinh thái là hai hướng ưu tiên phát triển trong chiến lược phát triển du lịch cả nước. Theo kết quả điều tra về tài nguyên du lịch năm 2009 của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch – Tổng cục du lịch thì trên địa bàn tỉnh Nam Định có 1.655 di tích lịch sử văn hoá, trong đó 268 di tích đã được xếp hạng với 74 di tích xêp hạng cấp quốc gia và 194 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Nhiều quần thể di tích có giá trị lịch sử, văn hoá và kiến trúc gắn liền với các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế như: quần thể di tích văn hoá Trần, Phủ Giầy, chùa Cổ Lễ, Chùa Keo Hành Thiện, nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh... Nam Định có trên 70 làng nghề với các ngành nghề và sản phẩm truyền thống. Nhiều làng nghề nổi tiếng trong nước được nhiều người biết đến như làng nghề chạm, khảm gỗ La Xuyên, sơn mài Cát Đằng, đúc đồng Tống Xá, mây tre đan Vĩnh Hào, dệt lụa, ươm tơ Cổ Chất, cây cảnh Vị Khê...

Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của Nam Định, hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch còn thấp, thu nhập du lịch của tỉnh tính đến năm 2010 mới đạt 135 tỷ đồng, chất lượng dịch vụ chưa cao, mức nchi tiêu bình quân/ngày/khách nhất là khách quốc tế đạt có 650.000đồng/ngày/khách, khách nội địa có 290.000đồng/ngày/khách). Quản lý Nhà nước về du lịch đặc biệt là trật tự, vệ sinh môi trường các khu điểm du lịch còn nhiều hạn chế.

Nguyên nhân chủ yếu của các khuyết điểm trên là do một bộ phận cán bộ lãnh đạo, các ngành và nhân dân chưa nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển du lịch trong phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch chưa có kinh nghiệm, còn thiếu và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ. Kết cấu hạ tầng chưa hoàn chỉnh, cơ sở lưu trú còn yếu kém, sản phẩm du lịch chưa đa dạng, chưa phong phú và thiếu hấp dẫn để thu hút khách, hoạt động lữ hành chưa được quan tâm đúng mức, quảng bá du lịch thiếu tính chuyên nghiệp và chưa đồng bộ…

Nam Định là một trong những nơi hình thành nên cái nôi của nền văn minh lúa nước sông Hồng, Nam Định được nhiều người biết đến với các loại hình văn hoá phi vật thể mang nét đặc trưng riêng có, gắn liền với cuộc sống lao động của cộng đồng cư dân nơi đây. Đến Nam Định khách du lịch không thể không thưởng thức những làn điệu chèo cổ, những điệu hát văn ngọt ngào quyến rũ. Khách du lịch có thể ghé thăm các phường rối nước, xem các nghệ nhân biểu diễn tại thuỷ đình nổi giữa ao làng duới bóng đa cây cổ thụ hoặc du khách xem các cư dân miền biển Nghĩa Hưng, Hải Hậu biểu diễn các tiết mục trên các đôi kheo cao tới bốn năm mét. Rồi những tiết mục chơi cờ đèn dưới nước, hoa trượng hội, bắt vịt, thổi cơm thi, bơi chải…đều là các trò chơi dân gian của những cư dân mà cuộc sống của cha ông họ từ xưa đến nay luôn gắn liền với sông nước.

Tỉnh Nam Định có 72km bờ biển với những bãi biển đã được khai thác, xây dựng thành các khu du lịch biển hấp dẫn như Thịnh Long (huyện Hải Hậu), Quất Lâm (huyện Giao Thuỷ). Đặc biệt vùng đất ngập nước cửa sông Hồng đổ ra biển Đông với hệ sinh thái rừng ngập mặn, nơi dừng chân của các loài chim di trú là điểm Ramsar quốc tế đầu tiên của Việt nam và khu vực Đông Nam Á (1989), đến đầu năm 2003 đã được Thủ tướng Chính Phủ ra quyết định công nhận là VQG Xuân Thuỷ. Năm 2005 được UNESCO trao bằng công nhận thuộc khu dự trữ sinh quyển liên tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đây là điểm du lịch sinh thái có sức hấp dẫn du khách trong nước, quốc tế, các nhà khoa học, học sinh sinh viên.

Vùng đồng bằng Nam Định còn có các làng quê trù phú, phong tục tập quán sinh hoạt văn hoá mang nét đặc trưng của nền văn minh lúa nước sông Hồng thích hợp với loại hình du lịch “du khảo đồng quê”. Du khách có thể thoải mái tựa lưng ngồi nghỉ trên cây cầu lợp mái ngói vắt ngang qua dòng sông được dựng từ

cách đây hàng mấy thế kỷ theo lối kiến trúc "thượng gia hạ trì - trên là nhà, dưới là sông" ngắm nhìn những cánh đồng lúa ngút ngàn, ngắm cây đa đầu làng, mái đình cổ kính và lắng nghe tiếng chuông nhà thờ ngân nga sau luỹ tre làng.

Đến với Nam Định, du khách đến với vùng văn hoá ẩm thực đặc trưng với những món ăn, những đặc sản nổi tiếng làm nên thương hiệu "Nam Định" như phở Nam Định, bánh cuốn làng Kênh, bánh gai bà Thi, kẹo lạc Sìu Châu, nem nắm Giao Thuỷ, gạo tám xoan Xuân Đài…

2.3.2. Hiện trạng về du lịch sinh thái vùng ven biển Nam Định[39, 45]

- Khách du lịch: Hiện trạng khách du lịch trong những năm qua ngành du lịch ven biển Nam Định có sự phát triển vượt bậc cả về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như về thu hút khách du lịch và doanh thu. Đến nay, toàn vùng ven biển Nam Định đã khai thác hơn 02 bãi biển vào mục đích nghỉ mát du lịch, giải quyết việc làm cho nhiều lao động trực tiếp và lao động gián tiếp trong vùng. Năm 2003 toàn vùng ven biển chỉ thu hút khoảng 261.550 lượt khách, đến năm 2008 đã tăng lên 386.775 lượt khách và năm 2010 lượng khách du lịch đến khu du lịch ven biển của tỉnh chỉ đạt 244.500 lượt khách. chiếm 14,51% về lượt khách du lịch của cả tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2003 - 2008 đạt 8,1, %/năm. Tuy nhiên đến năm 2009 và năm 2010 lượng khách du lịch đến vùng ven biển Nam Định tự nhiên giảm đi một cách rõ rệt do vậy mà tốc độ tăng trưởng giảm đi xuống còn có - 20,49%/năm.

Bảng 2.2. Thống kê lượng khách du lịch và thu nhập du lịch

Đơn vị tính: Lượt người, Thu nhập: Tỷ đồng


Các chỉ tiêu

2007

2008

2009

2010

I. TS khách đến Nam Định

1.150.000

1.270.000

1.412.000

1.685.000

Trong đó: Khách

DL biển

390.000

386.775

242.805

244.500

Tỷ lệ % số với tổng số khách

33,91

30,45

17,2

14,51

II. Thu nhập các

KDL biển

37

42.5

31

36.7

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.

Giải pháp phát triển du lịch sinh thái biển Nam Định theo hướng bền vững - 7

Nguồn : Phòng Quản lý Du lịch - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định

Xem tất cả 177 trang.

Ngày đăng: 07/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí