Sự Cần Thiết Của Đầu Tư Tăng Trưởng Quỹ Bhxh

Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì quỹ có 2 mô hình:

- Quỹ BHXH ngắn hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hưởng một lần.

- Quỹ BHXH dài hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trả hàng tháng.

Xét dưới góc độ cân đối thu - chi thì quỹ có 2 mô hình cơ bản:

- Mô hình toạ thu - toạ chi: Cân đối quỹ được xác định hàng năm, thu không đủ chi thì Ngân sách Nhà nước cấp bù (giống như mô hình quỹ nước tha trước năm 1995)

- Mô hình tồn tích: Cân đối quỹ BHXH được xác định dài hạn; dựa vào các phương pháp tính toán thống kê, xác suất theo quy luật số lớn để xác định tổng nguồn thu vào quỹ BHXH và tổng số chi ra từ quỹ BHXH, để tính cân đối thu - chi dài hạn khoảng 10, 20 và 30 năm. Trong mô hình này có hai loại là tồn tích cá nhân và tồn tích cộng đồng. Với mô hình tồn tích cá nhân thì mọi sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, của người lao động, khoản tiền lãi đầu tư trong năm được lưu giữ và tồn tích vào một tài khoản cá nhân cho từng người, thuộc quyền sở hữu của cá nhân họ; Ở mô hình này thì không sợ mất cân đối quỹ, nhưng lại làm mất bản chất của BHXH là chia sẻ rủi ro, thực chất là “khoản tiết kiệm bắt buộc”. Quỹ BHXH theo mô hình tồn tích cộng đồng (giống của nước ta hiện nay) đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, mang đúng bản chất của BHXH; quỹ được dùng chung cho tất cả mọi người tham gia BHXH nên tính nhân văn và xã hội cao; có thể hình dung, quỹ BHXH như một ngôi nhà chung của mọi người tham gia BHXH, dùng che trở cho họ khi gặp rủi ro, ngôi nhà này càng to càng vững chắc thì khả năng che trở càng tốt.

6. Các nhân tố tác động đến quỹ BHXH

- Chính sách tiền lương - tiền công: Thu nhập của người lao động là đối tượng của BHXH. Vì vậy, chính sách tiền lương là nhân tố đầu tiên tác động đến quy mô của quỹ BHXH. Giữa chính sách tiền công - tiền lương và chính sách BHXH nói chung và việc tăng giảm quỹ BHXH nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương là tiền đề và là cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH, trên cơ sở tính toán mức đóng và mức hưởng BHXH lại phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, khi Nhà nước nâng mức lương tối thiểu lên thì mức đóng BHXH cũng tăng lên và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng lên tương ứng với sự tăng lên của quỹ BHXH.

- Lực lượng lao động: Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người trong độ tuổi lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Như vậy, nếu một quốc gia có dân số “già”- tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ thấp trong tổng số dân số - sẽ dẫn đến mất cân đối quỹ BHXH bởi vì số người tham gia đóng góp vào quỹ ngày càng ít đi trong khi số người hưởng chế độ BHXH đặc biềt là chế độ hưu trí ngày càng tăng. Mặt khác, do nguyên tắc của BHXH là “số đông bù số ít”, nếu số người tham gia BHXH ngày càng nhiều thì sự rủi ro đến với mỗi người lao động sẽ được dàn trải rất rộng, từ đó tính chất xã hội của bảo hiểm sẽ ngày càng được thể hiện rõ nét, quỹ BHXH sẽ càng vững mạnh, khả năng chi trả tăng lên và làm tăng phần quỹ nhàn rỗi.

- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước, vì thế nếu quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi, là điều kiện để người lao động tham gia BHXH được nhiều hơn, để các chủ doanh nghiệp sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động và làm giảm tình trạng trốn đóng góp BHXH của họ. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của người lao động cũng cao lên, ngoài việc ý thức bảo đảm cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình, họ còn mong muốn có khoản trợ giúp trong tương lai khi không may gặp rủi ro xã hội khiến họ bị mất hoặc bị giảm thu nhập. Tất cả những yếu tố trên tác động tích cực làm tăng thu BHXH.

- Mức chi trả các chế độ BHXH: Mức chi trả các chế độ BHXH phụ thuộc vào: số lượng các chế độ BHXH được áp dụng, số người hưởng và tỉ lệ hưởng các chế độ BHXH.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới - 3

Nếu một quốc gia triển khai và áp dụng nhiều các chế độ trong số 9 chế độ thì số thu BHXH ngày càng lớn. Mặt khác, tỉ lệ hưởng càng cao có nghĩa là số tiền chi trả cho các chế độ càng lớn, chính điều này đặt ra yêu cầu thu BHXH ngày càng chặt chẽ hơn để tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH. Khi tuổi nghỉ hưu càng tăng lên thì mức chi trả lương hưu sẽ giảm, mức thu lại càng tăng nên sẽ giảm nguy cơ mất cân đối quỹ.

- Nguồn lãi từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH: Nếu quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình toạ thu - toạ chi thì quỹ luôn được cân đối ngay trong năm và không có kết dư. Nếu quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích thì hàng năm đều có kết dư, đây là nguồn vốn rất quan trọng để đầu tư vào các lĩnh vực có độ rủi ro thấp. Nếu hoạt động đầu tư có hiệu quả thì tiền lãi từ hoạt động này sẽ làm quy mô quỹ vững mạnh, đảm bảo cân bằng trong thời gian dài.

7. Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH

Để quỹ BHXH tồn tại và hoạt động độc lập, về nguyên tắc quỹ phải được cân đối có nghĩa là các khoản thu BHXH tối thiểu phải đảm bảo nhu cầu chi trả các chế độ BHXH và chi quản lý bộ máy. Cân đối quỹ BHXH được hiểu là mối quan hệ tương đương về lượng và sự bằng nhau giữa hai đại lượng thu - chi, ngoài ra cân đối quỹ BHXH còn thể hiện ở việc bố trí cơ cấu và quan hệ số lượng giữa các yếu tố trong cơ cấu thu - chi quỹ BHXH.

Cân đối quỹ BHXH về hình thức là cân đối giữa thu và chi. Về thực chất, cân đối quỹ BHXH phản ánh nguồn lực tài chính có thể chi phối trực tiếp, nó thể hiện sự cân đối tài chính trong phạm vi của một quỹ. Cũng giống như sự phát triển của mọi sự vật, cân đối thu - chi quỹ BHXH là tương đối chứ không tuyệt đối, luôn ở trạng thái vận động, cân đối và không cân đối chuyển hoá lẫn nhau. Cân đối quỹ BHXH được thể hiện trong suốt quá trình phát sinh giải quyết mâu thuẫn giữa thu và chi, do đó ít nhiều có số dư có thâm hụt (trong phạm vi cho phép). Các trường hợp đó đều phải coi là phạm vi cân đối cơ bản, đều là hình thức biểu hiện của cân đối quỹ BHXH.

Từ sự vận động thu - chi của quỹ BHXH, về nguyên tắc cân đối phải đảm bảo:

Tổng số tiền Tổng chi Tổng chi

Tổng thu + sinh lời từ = các chế độ + phí cho + Chi khác đầu tư BHXH quản lý

Từ đó cho biết nguyên nhân làm mất cân đối quỹ BHXH:

- Mức độ phát triển của nền kinh tế

- Hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bh

- Cơ cấu hợp lý giữa các khoảng thu- chi bh

- Cơ chế quản lý tài chính BHXH kém hiệu quả.

Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH: Để đảm bảo cho quỹ BHXH tồn tại độc lập với NSNN trong nền kinh tế thị trường và trở thành một bộ phận của hệ thống tài chính quốc gia, một tụ điểm của thị trường tài chính thì nguyên tắc cân đối quỹ BHXH là:

- Tổng số thu từ người lao động và chủ sử dụng lao động phải lớn hơn tổng số chi cho các chế độ BHXH và phần tích luỹ ngày càng cao làm gia tăng khoản chi đầu tư tăng trưởng.

- Trong trường hợp bội chi quỹ BHXH thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư tăng trưởng quỹ để đảm bảo quỹ luôn được cân đối

- Tổng số chi cho các chế độ BHXH dài hạn và ngắn hạn không vượt quá tổng số thu vào các quỹ BHXH dài hạn và ngắn hạn.

- Lợi nhuận đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH mang lại phải đảm bảo nguyên tắc: không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích tăng trưởng quỹ BHXH.


III. VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH

1. Sự cần thiết của đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH

Trong hoạt động của quỹ BHXH, do tính đặc thù của quá trình thu - chi BHXH nên quỹ BHXH luôn có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi, phần tiền này với tư cách là một bộ phận tài chính cần phải được đem đầu tư. Có rất nhiều lý do dẫn đến cần phải đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH, nhưng chủ yếu là các lý do sau:

- Trong các nguồn thu của quỹ thì có một bộ phận được dụng ngay (cho các trợ cấp BHXH ngắn hạn); nhưng phần lớn dùng để chi trả cho các trợ cấp BHXH dài hạn mà tính từ khi đóng phải hàng chục năm sau mới phải chi (nếu chỉ tính riêng cho từng cá nhân). Đối với những hệ thống BHXH trẻ (như Việt Nam), số người đóng góp hiện tại lớn hơn nhiều so với số người hưởng BHXH hiện tại, thì số tiền chưa được dùng đến ngay rất lớn. Đây được gọi là phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH. Theo quy luật tiền tệ, phần nhàn rỗi của quỹ BHXH không được để đóng băng mà phải được đưa vào lưu thông, phải được đầu tư để tránh những rủi ro về tiền tệ như lạm phát và các rủi ro khác. Do vậy, đầu tư trước hết là để đảm bảo giá trị của phần vốn này, mặt khác phần sinh lời thực tế (sau khi đã trừ đi lạm phát) sẽ làm tăng quy mô của quỹ BHXH, góp phần cải thiện cho các trợ cấp ngắn hạn; đồng thời đảm bảo cho các hoạt động của BHXH được tốt hơn cả trong hiện tại và tương lai.

- Do thiết kế kỹ thuật, có tính tới yếu tố thu nhập hiện thời của người lao động, nên phí BHXH chỉ là phí tối thiểu. Nếu tính riêng cho một người lao động thì phần đóng góp của họ không đủ chi trả cho họ từ sau khi nghỉ hưu cho đến khi chết. Vì vậy, trong kỹ thuật tính phí BHXH phải dựa trên số đông bù số ít và có tính đến các yếu tố đầu tư. Do vậy, nếu không đầu tư tăng trưởng quỹ thì quỹ BHXH không thể chi dùng đủ cho tương lai, trong khi nhu cầu thụ hưởng của người lao động ngày càng cao theo thời gian.

- Là một bộ phận của tài chính quốc gia, muốn nền kinh tế tăng trưởng, cải thiện đời sống chung cho nhân dân, các nguồn lực tài chính phải được huy động tối đa, do vậy sự huy động phần nhàn rỗi của quỹ BHXH vào nền kinh tế là yêu cầu có tính khách quan, vừa góp phần tăng trưởng quỹ, vừa góp phần tăng vốn cho nền kinh tế. Thông qua việc

đầu tư vốn vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội hoặc các thị trường tài chính ( thông qua mua cổ phiếu, trái phiếu…), quỹ BHXH đã cung cấp một lượng vốn lớn và đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng nền kinh tế; góp phần lành mạnh hoá thị trường tài chính của đất nước.

- Khi quỹ BHXH ổn định và tăng trưởng, phần chi từ NSNN cho BHXH sẽ giảm đi và NSNN sẽ có điều kiện để tập trung chi vào các mục tiêu trọng yếu khác.

- Hiện nay, mặc dù các chế độ ngắn hạn luôn có kết dư, song các chế độ dài hạn như hưu trí và tử tuất thì tốc độ tăng thu luôn thấp hơn tốc độ tăng chi, như vậy trong vòng 30 năm tới nếu chỉ dựa vào các khoản thu thì quỹ có nguy cơ mất cân đối. Vì vậy, phải có biệm pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ.

2. Đặc điểm của đầu tư quỹ BHXH

Ở mỗi quốc gia, công tác đầu tư quỹ BHXH đều có những nét riêng, nhưng hầu hết đều có những đặc điểm chủ yếu sau:

- Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở chủ yếu là đóng góp của các bên tham gia BHXH, vốn đầu tư của quỹ không phải là vốn kinh doanh mà là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi dự trữ cho tương lai nhằm để chi trả các trợ cấp BHXH cho người lao động khi tham gia BHXH. Do đó không có khái niệm kinh doanh quỹ BHXH mà chỉ là các hoạt động đầu tư phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH.

- Sự chuyển quyền sử dụng vốn trong công tác đầu tư quỹ BHXH chủ yếu được tiến hành dưới các hình thức mua bán vốn như: mua cổ phiếu, trái phiếu, công trái, tín phiếu, cho vay, mua bất động sản…

- Ở hầu hết các nước, Chính phủ đều quy định danh mục đầu tư, hoặc phân cấp rõ ràng danh mục đầu tư gắn liền với trách nhiệm của các cấp, các ngành để hạn chế rủi ro của quỹ.

- Quỹ BHXH là thuộc sở hữu của các bên tham gia đóng góp, đó là quỹ của xã hội dùng để chi cho các chế độ BHXH theo quy định. Vì vậy, việc đầu tư của quỹ phải đảm bảo yêu cầu thu hồi vốn thuận tiện, hết thời hạn đầu tư phải thu hồi được cả vốn và lãi, dễ dàng chuyển đổi các nguồn vốn đem đầu tư thành tiền mặt khi cần.

- Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cũng phải tuân thủ yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế trên thị trường vốn.

3. Nguyên tắc cơ bản đầu tư quỹ BHXH

Do quỹ BHXH có những đặc trưng riêng, khác với những tổ chức tài chính khác, nên việc đầu tư tăng trưởng quỹ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:

- Nguyên tắc: “Đảm bảo an toàn khi đầu tư”.

Mục tiêu hình thành quỹ BHXH là để góp phần đảm bảo an toàn thu nhập cho người lao động và sâu sa hơn là đảm bảo an sinh xã hội cho dân cư. Vì vậy, an toàn là nguyên tắc hàng đầu trong việc đầu tư quỹ BHXH. Có thể nói, quỹ BHXH về bản chất là tài sản của nhiều thế hệ lao động, luôn luôn gắn liền với đời sống của hàng triệu người tham gia BHXH và gia đình họ. Quỹ BHXH được bảo toàn và tăng trưởng tốt sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của người lao động tham gia BHXH và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần ổn định và phát triển đất nước. Ngược lại, nếu quỹ BHXH không được sử dụng đúng, không đảm bảo được giá trị, mất an toàn ( thâm hụt) thì đời sống của người tham gia và thụ hưởng sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên; hậu quả là sé dẫn đến rối loạn xã hội nghiêm trọng. Nhiều Chính phủ đã phải sụp đổ do những vấn đề có liên quan đến lợi ích của người tham gia BHXH.

- Nguyên tắc: “ Hiệu quả”.

Yêu cầu của nguyên tắc này là đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH phải mang lại lợi nhuận. Đây cũng là yêu cầu tất yếu của hoạt động đầu tư, bởi vì mọi đầu tư vốn đều nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Khoản lợi nhuận này phải được thực hiện qua từng dự án đầu tư trong từng giai đoạn cụ thể. Nghĩa là kết quả của hoạt động đầu tư phải cao hơn chi phí đã bỏ ra. Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải tuân thủ quy luật lãi suất dương và lãi suất phải được điều chỉnh kịp thời theo sự biến động của chỉ số lạm phát và lãi suất thị trường; mặt khác, phải có chiến lược đầu tư tổng thể và có lộ trình đầu tư trên cơ sở xác định được danh mục đầu tư, các lĩnh vực đầu tư chủ yếu.

- Nguyên tắc: “khả năng thanh toán thường xuyên”.

Mục tiêu lập quỹ BHXH là để đáp ứng được những chi trả các trợ cấp BHXH ở bất cứ thời điểm nào và ở bất cứ đâu. Nói cách khác, quỹ BHXH phải luôn ở chế độ sẵn sàng có tiền để chi trả trợ cấp BHXH định kỳ hoặc đột suất. Chính vì vậy, phần chưa dùng đến của quỹ BHXH mới được gọi là phần nhàn rỗi tương đối. Do đó, nguyên tắc cơ bản khi tổ chức các hoạt động đầu tư của quỹ BHXH là dù đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền và có thể thu hồi được dễ dàng. Chính phủ nhiều quốc gia thường quản lý danh mục đầu tư chặt chẽ. ILO khuyến cáo trong cơ quan BHXH nên có bộ phận đầu tư và phải có chuyên gia đánh giá đầu tư chuyên nghiệp. Việc đánh giá này phải nêu lên được những ưu nhược điểm của các danh mục dự định đầu tư để có lựa chọn những danh mục hợp lý nhất, đảm bảo nguyên tắc có khả năng thanh toán này.

- Nguyên tắc: “Đảm bảo lợi ích xã hội”.

BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Nhà nước. Mục đích của BHXH là đảm bảo thu nhập cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và mục đích xa hơn của BHXH là nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao mức sống chung của dân cư. Vì vậy, song song với các yêu cầu về hiệu quả kinh tế nhằm tăng trưởng quỹ, việc đầu tư quỹ BHXH phải đạt hiệu quả về mặt xã hội, đảm bảo được các lợi ích xã hội, cần chú trọng tới các dự án phục vụ công cộng và các mục tiêu xã hội thực sự cho dù hiệu quả kinh tế đầu tư có thể thấp. Đầu tư quỹ BHXH phải luôn gắn liền với các chính sách về xã hội như dân số, lao động và môi trường sống… Nguyên tắc này phải được vận dụng trong tất cả các nghiệp vụ đầu tư, từ việc xác định danh mục hạn mức đến xác định mức lãi đầu tư vốn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, đồng thời tuân thủ một cách nghiêm túc yêu cầu khách quan của các quy luật.

4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH

4.1. Các nhân tố khách quan

- Môi trường đầu tư: Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả đầu tư quỹ. Môi trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho cơ quan BHXH đưa luồng tiền tạm thời nhàn rỗi vào hoạt động một cách nhanh chóng nhất tránh hiện tượng ứ đọng vốn từ đó tác động tới lợi suất của việc đầu tư, tạo điều kiện lựa chọn danh mục đầu tư ít rủi ro và có lợi suất tối ưu.

- Cơ chế pháp lý về đầu tư quỹ: Những định chế pháp lý về đầu tư quỹ BHXH đầy đủ và đồng bộ là yếu tố có tính quyết định tới hiệu quả đầu tư quỹl. Những quy định pháp lý bắt buộc phải được thể chế hoá như: Nguyên tắc đầu tư, danh mục đầu tư, tỉ lệ phân bổ nguồn vốn đầu tư, phân phối lợi nhuận từ hoạt động đầu tư…

Một hệ thống định chế pháp đầy đủ và đồng bộ sẽ là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH tham gia đầu tư trên thị trường đồng thời nó cũng tác động tích cực đến lợi tức và rủi ro mong đợi của hoạt động đầu tư.

- Chính sách tài chính tiền tệ quốc gia: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ tác động mạnh mẽ đến hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô từ đó tác động đến hiệu quả đầu tư. Đối với chính sách tài khoá, nếu Chính phủ kiểm soát được thâm hụt NSNN, xác định được nguồn bù đắp bội chi cho NSNN làm lành mạnh hoá động NSNN, sẽ là cơ sở để cơ quan BHXH định hướng hoạt động đầu tư. Đối với chính sách tiền tệ, nếu Chính

phủ kiểm soát được tỷ lệ lạm phát ở một tỷ lệ thích hợp cũng là cơ sở để cơ quan BHXH xác định một lợi suất mong đợi hợp lý nhằm đảm bảo giá trị thực của quỹ trong tương lai.

4.2. Nhân tố chủ quan

- Hiệu quả hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Đây là yếu tố quyết định đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH. Để đảm bảo lợi ích người lao động thì việc nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH luôn được thực hiện bởi một tổ chức chuyên trách về đầu tư có trình độ chuyên môn.

- Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư quỹ BHXH là một hoạt động đầu tư phức tạp đòi hỏi nhiều thông tin từ nhiều phía. Đế cơ quan bảo hiểm ra quyết định đúng đắn thì việc trang bị cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ đầu tư hiện đại là một việc làm thiết yếu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH.

- Sự phối kết hợp với các tổ chức tài chính tín dụng khác: BHXH là một trung gian tài chính phi ngân hàng, hoạt động đầu tư quỹ BHXH đặc biệt là đầu tư vào thị trường tài chính luôn luôn gặp phải sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính như Ngân hàng, các công ty Bảo hiểm…, vì vậy hiệu quả của việc phối kết hợp của các tổ chức tài chính trung gian trong nền kinh tế thị trường sẽ tác động đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH đồng thời hạn chế những rủi ro đối với cơ quan BHXH.

5. Sử dụng vốn đầu tư từ quỹ BHXH

5.1. Tiêu chuẩn lựa chọn tài sản đầu tư từ quỹ BHXH

Nhà đầu tư xem xét 5 yếu tố trọng điểm sau để làm căn cứ ra quyết định đầu tư:

- Của cải: Đối với BHXH, khi nguồn nhàn rỗi tăng lên, theo tiêu chuẩn này thì tỉ lệ vốn đầu tư vào các loại chứng khoán sẽ tăng cao hơn so với đầu tư vào tiền gửi ngân hàng. Khi lượng tiền trong két tăng lên đến một mức nào đó thì nó có thể đầu tư để kiếm lời,nếu lãi suất tăng lên thì số tiền mặt được gửi để tiến hành giao dịch sẽ giảm xuống.

- Lợi suất kỳ vọng: Là hiệu suất sinh lời mà nhà đầu tư mong muốn và dự kiến có thể đạt được khi quyết định bỏ vốn đầu tư. Trong cùng một môi trường đầu tư, Nhà đầu tư sẽ lựa chọn tài sản nào có lợi suất kỳ vọng cao hơn. Đối với BHXH thì tiêu chuẩn này hết sức quan trọng, đặc biệt đối với nghiệp vụ dài hạn với yêu cầu đầu tư phải đạt được lãi suất nhất định. BHXH chỉ có thể đầu tư vào loại tài sản có hiệu suất sinh lời cao nhất khi các yếu tố khác tương tự nhau.

- Mức độ rủi ro: Rủi ro thường tương quan với lợi suất kỳ vọng, vì thế để đảm bảo nguyên tắc “an toàn”, BHXH sẽ phải lựa chọn tài sản có mức độ rủi ro thấp chứ không thể ưu tiên loại tài sản có lợi suất kỳ vọng cao.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/07/2023