không có khách hàng. Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào uy tín về chất lượng phục vụ, về quan hệ với các tổ chức tài chính khác...của ngân hàng. Khách hàng sẽ không muốn giao dịch với những ngân hàng không có uy tín vì rủi ro có thể xảy ra đối với họ làm gián đoạn quá trình kinh doanh, hoặc làm mất đi cơ hội kinh doanh của họ. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể tăng khả năng thu hút khách hàng thông qua các hoạt động đi kèm với hoạt động tín dụng như: dịch vụ tư vấn, thẻ tín dụng...
Tuân thủ các quy định do ngân hàng nhà nước đề ra trong lĩnh vực tín dụng trung và dài hạn: Nhận thức được vai trò và chức năng của các ngân hàng trong nền kinh tế, Nhà nước luôn có những chính sách quy định về hoạt động của họ, mà một trong những quy định hết sức quan trọng đó là những quy định về hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tuân thủ các quy định này của Nhà nước chính là sự tuân thủ pháp luật, góp phần ổn định nền tiền tệ quốc gia, giúp cho nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và bền vững - tăng chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Góp phần vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước (đáp ứng vốn cho những ngành, lĩnh vực mũi nhọn nhờ đó đã giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động…): Hoạt động tín dụng mở rộng sẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế: các dự án đầu tư có hiệu quả cao sẽ không bị thiếu vốn, tức là nó có thể đi vào hoạt động, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nhiều người lao động, giải quyết một vấn đề vô cùng “bức xúc” của mỗi quốc gia, và xét về mặt đóng góp cho xã hội-đó là chất lượng tín dụng.
Để đánh giá các chỉ tiêu trên một cách chính xác thì rất là khó vì nó là những chỉ tiêu định tính, không tính toán được như những chỉ tiêu định lượng. Tuy nhiên, trong khi so sánh với nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng cùng hoạt trong một môi trường kinh tế, môi trường pháp lý...và cùng chịu sự chỉ đạo của các chính sách thì ta cũng sẽ có thể dễ dàng đánh giá được các chỉ tiêu này. Và thông qua đó, ta cũng có thể một phần thấy được chất lượng tín dụng của các ngân hàng.
1.2. TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
1.2.1. TỔNG QUAN VỀ DNNN 1.2.1.1. Khái niệm
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 1
- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 2
- Thực Trạng Tín Dụng Trung Và Dài Hạn Đối Với Dnnn Tại Sgd Nh Đt&ptvn
- Thực Trạng Tín Dụng Trung Và Dài Hạn Đối Với Dnnn Tại Sgd Nhđt&pt Vn
- Đánh Giá Chất Lượng Tín Dụng Trung Và Dài Hạn Đối Với Dnnn Tại Sgd Nhđt&pt Vn
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc nhà nước có cổ phần hoặc vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần nhà nước, công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2.1.2. Đặc điểm
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do doanh nghiệp quản lý.
1.2.1.3. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước. Trong đó, Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối liên hệ gắn bó
với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên nghành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị và toàn tổng công ty.
Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức liên kết và tập hợp các công ty thành viên hạch toàn độc lập và có tư cách pháp nhân, hoạt động trong một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường tích tụ, tập chung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị.
Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập là hình thức liên kết thông qua đầu tư, góp vốn của công ty nhà nước quy mô lớn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là tổng công ty được thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc lập và các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên do mình thành lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ công ty nhà nước độc lập.
Công ty cổ phần nhà nước là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước hoặc các tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên: là công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
1.2.1.4. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
DNNN là lực lượng quan trọng để nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế: Nhà nước nào cũng vậy, muốn điều tiết được nền kinh tế thì phải có một tiềm lực kinh tế mạnh. Kinh tế nhà nước mà trong đó tiêu biểu là Doanh nghiệp nhà nước sẽ là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra tiềm lực kinh tế mạnh để Nhà nước thực hiện yêu cầu đó. DNNN có ở những khâu trọng yếu của nền kinh tế, cung ứng phần lớn những tư liệu sản xuất chủ yếu và tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai trò nòng cốt trong việc củng cố, phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống kinh tế nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế. DNNN là một lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến trong nền kinh tế. Trong các cuộc kháng chiến cứu nước, DNNN đã khẳng định vị trí đó của mình và trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, khi những biến động của nền kinh tế thế giới cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta thì vai trò đó càng thể hiện rõ hơn: DNNN cùng với nhiều loại hình doanh nghiệp khác đã góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá cả, kiềm
chế lạm phát…
DNNN có vị trí then chốt trong kinh tế nhà nước; là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.
Trong nền kinh tế, việc mở ra một loại hình kinh doanh mới sẽ luôn gặp phải những khó khăn, trở ngại. Song, nếu không có người mở đường đi vào lĩnh vực đó, thì nền kinh tế sẽ mất đi những cơ hội kinh doanh, mất đi tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế và do đó sẽ tụt hậu so với các nước khác. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội, cần thiết phải có các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
này. Đóng vai trò này không có ai khác ngoài các doanh nghiệp nhà nước. Ở một khía cạnh khác, trong xã hội, bên cạnh những doanh nghiệp hoạt động với mục đích kinh doanh thì phải có những doanh nghiệp khác sản xuất các hàng hóa công cộng. Việc sản xuất các hàng hóa này thường đem lại lợi nhuận thấp hoặc là sẽ có rất nhiều rủi ro trong việc đầu tư, nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội lại rất cần thiết cho sự phát triển như đường sá, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu khoa học…Ở những lĩnh vực đó cần thiết phải phát triển các DNNN.
DNNN có điều kiện về mọi mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, điện…DNNN có điều kiện để đi đầu trong việc tập trung nghiên cứu, xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất những hàng hóa mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu cầu, đem lại lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng nhiều lao động, tạo điều kiện để kinh tế trong nước phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới. DNNN có vai trò quyết định trong việc thăm dò và cùng các thành phần kinh tế khác khai thác tài nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, vừa khai thác có hiệu quả tài nguyên, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. DNNN là tấm gương tiêu biểu cho các thành phần kinh tế khác trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi lĩnh vực, đặc biệt là giải quyết việc làm, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật…và đóng góp một phần quan trọng vào ngân sách nhà nước.
DNNN góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước từ đó đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội.
DNNN có mặt trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng trong cả nước với sự phân bố hợp lý theo vùng, miền, địa bàn để phát huy lợi thế, khả năng về mọi mặt. Do đó đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế từng vùng: phủ xanh đất trống, đồi trọc; giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền trong cả nước.
Hiện nay nước ta đang trong tiến trình cổ phần hóa (CPH) các DNNN vì CPH là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất trong việc cơ cấu lại DNNN để DNNN có cơ cấu
thích hợp, quy mô lớn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Trong tương lai, khi nhiều DNNN được CPH thì số lượng các DNNN tuy bị giảm đi nhưng chất lượng hoạt động của các DNNN sẽ tăng lên đáng kể, từ đó loại hình doanh nghiệp này sẽ càng phát huy hơn nữa vai trò to lớn của mình.
1.2.2.VAI TRÒ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
Đối với ngân hàng thương mại:
Tín dụng trung và dài hạn tuy là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với tín dụng ngắn hạn đồng thời nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn nhưng hoạt động này lại đem lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận lớn hơn.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, do đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng thương mại.
Đối với DNNN:
Tín dụng trung và dài hạn tài trợ cho nhu cầu tài sản cố định và bộ phận tài sản thường xuyên của doanh nghiệp do đó các doanh nghiệp có thể duy trì, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhu cầu về vốn để duy trì sản xuất kinh doanh đối với mỗi doanh nghiệp là rất lớn, bên cạnh các nguồn khác có thể tài trợ vốn cho doanh nghiệp thì hoạt động tín dụng trung và dài hạn sẽ cung cấp một lượng vốn quan trọng cho các doanh nghiệp, giúp các DNNN tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình.
Tín dụng trung và dài hạn tài trợ vốn, giúp các DNNN có một cơ cấu vốn hợp lý đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
Vốn là một nhân tố cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ và vốn chủ sở hữu. Trong đó, vốn của chủ có thể bao gồm vốn huy động bằng cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu tiên, lợi nhuận không chia. Tỷ trọng của các nguồn đó trong tổng nguồn chính là cơ cấu vốn. Một cơ cấu vốn hợp lý không thể thiếu nợ vay, hơn nữa doanh nghiệp sử
dụng nợ sẽ tạo ra đòn bẩy tài chính, tức là việc sử dụng nợ có thể giúp người vay tiền tạo ra các khoản thu nhập lớn hơn chi phí của khoản nợ, làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Do đó có thể khẳng định rằng: tín dụng nói chung và tín dụng trung – dài hạn nói riêng đã tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có một cơ cấu vốn hợp lý.
Trong hoạt động tín dụng, để đảm bảo an toàn và giảm thiểu rủi ro thì các ngân hàng không thể bỏ qua một khâu quan trọng: Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong quá trình tín dụng. Với công việc này, ngân hàng đã không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân ngân hàng mà còn giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có trách nhiệm hơn với đồng vốn đi vay bởi vì chỉ cần phát hiện ra một trục trặc nhỏ về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh…của doanh nghiệp là ngân hàng có thể thu hồi vốn lại. Nhờ đó, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp sẽ được nâng cao.
1.2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
Hoạt động tín dụng bao giờ cũng tiềm ẩn những rủi ro mà không một ai cũng có thể dự đoán chính xác những vấn đề gì sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể thay đổi do nhiều nguyên nhân cũng như những biến động của thị trường sẽ có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Phân tích để đưa ra được những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là một việc làm quan trọng, giúp ngân hàng có thể dự đoán được những gì có thể xảy ra, để từ đó tìm những biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp nhà nước: 1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng:
Thông thường, mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng vì các ngân hàng thường có những thế mạnh riêng. Tuy nhiên, các chiến lược kinh doanh đó trước tiên phải phù hợp với chính sách phát triển chung của Nhà nước, tiếp theo đó,
chiến lược kinh doanh của ngân hàng phải phù hợp với khả năng của mình. Một ngân hàng nhỏ, không có nhiều kinh nghiệm thì không thể theo đuổi chiến lược kinh doanh là thâm nhập vào các thị trường cần nhiều vốn đầu tư, rủi ro quá cao. Ta có thể lấy một ví dụ cụ thể như: nếu một ngân hàng có khả năng huy động vốn trung và dài hạn không lớn thì không thể tiến hành chiến lược kinh doanh là tập trung vào cho vay trung và dài hạn. Trong thời kỳ hiện nay, mặc dù chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng có thể tập trung vào các đối tượng khác nhau nhưng các ngân hàng thương mại đều đã cho vay trung và dài hạn đối với tất cả các thành phần kinh tế, từ kinh tế tư nhân đến doanh nghiệp Nhà nước, bằng nguồn vốn huy động ngắn hạn. Nhiều ngân hàng thương mại còn có chiến lược kinh doanh là cho vay trung và dài hạn bằng ngoại tệ. Với chiến lược này, nếu ngân hàng không dự tính được những biến động về tỷ giá, về xu hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai hoặc nếu doanh nghiệp đi vay sử dụng khoản vay để nhập khẩu máy móc, thiết bị đã lạc hậu hoặc giá nhập khẩu quá cao, khiến cho sản phẩm sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài như: xi măng, mía đường...thì sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng:
Với tầm quan trọng và quy mô lớn của hoạt động tín dụng, hoạt động này phải được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng với các nội dụng như: Chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, chính sách lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách về thời hạn tín dụng và kì hạn nợ, các tài sản đảm bảo, chính sách đối với các tài sản có vấn đề. Các chính sách này sẽ phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, nó hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Với vai trò này, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng không được xây dựng phù hợp với khả năng, quy mô của ngân hàng, không phù hợp với đối tượng khách hàng của ngân hàng thì hoạt động của ngân hàng sẽ không mang lại lợi nhuận cao, không làm thỏa mãn khách hàng, từ đó sẽ làm giảm dần lượng khách hàng của ngân hàng,