là luôn vận động theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường, nên ngày càng cần phải được tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
- Nguồn vốn cung cấp cho các trang trại bao gồm: sự hỗ trợ từ ngân sách địa phương, từ phía Nhà nước, vốn tự có của chủ trang trại, vốn vay, vốn tín dụng, trong đó chủ yếu là vốn của chủ trang trại, phần hỗ trợ từ phía Nhà nước là rất hạn hẹp, vì thế khả năng tích lũy vốn để mở rộng kinh doanh, đầu tư trang trại thiết bị công nghệ tiên tiến là rất khó khăn.
- Thị trường: Cùng với vốn, thị trường là vấn đề sống còn của kinh tế trang trại, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị ờng đầu ra, đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chúng tác động một cách mạnh mẽ tới tư duy và cách thức hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, đẩy nhanh phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa ở nông thôn, nhờ đó dân cưthoát khỏi tư duy kinh tế theo lối tiểu nông.
- Cơ sở hạ tầng nông thôn: Đây chính là “bầu không khí sống” của kinh tế trang trại. Là yếu tố hỗ trợ cho kinh tế trang trại và trong nhiều trường hợp, nó mang tính quyết định.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế trang trại. Trong những năm qua nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật đã được áp dụng mạnh mẽ và nhanh chóng vào trong nông nghiệp. Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá như là yếu tố đầu vào cho sản xuất của các trang trại đó là các loại vật tư, phân bón, giống cây con các loại, máy móc thiết bị... Chính những yếu tố đầu vào có chất lượng tốt đã tạo ra một khả năng to lớn góp phần tăng năng suất, sản lượng và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp.
Số lượng trang trại ngày càng tăng lên trong đó có nhiều trang trại đã mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh những loại cây trồng vật nuôi, những loại sản phẩm mới có năng suất và chất lượng cao
hơn và do đó làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại một cách rò rệt.
1.4. Tình hình phát triển kinh tế trang trại trên Thế giới và Việt Nam
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh - 2
- Ý Nghĩa Khoa Học Và Đóng Góp Mới Của Luận Văn
- Các Yếu Tố Cơ Bản Hình Thành Và Phát Triển Kinh Tế Trang Trại
- Một Số Kết Luận Rút Ra Từ Nghiên Cứu Lý Luận Và Thực Tiễn
- Những Chỉ Tiêu Phản Ánh Trình Độ Tiêu Thụ Sản Phẩm Của Trang Trại
- Dân Số Và Mật Độ Dân Số Phân Theo Phường, Xã Năm 2019
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
1.4.1. Tình hình phát triển trang trại trên Thế giới
Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở một số nước Châu âu
Châu Âu cái nôi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, đã xuất hiện hình thức tổ chức sản xuất kinh tế trang trại, thay thế cho hình thức kinh tế tiểu nông và hình thức điền trang của chế độ phong kiến. Nước Anh đầu thế kỷ XVII có sự tập trung ruộng đất đã hình thành nên những trang trại tập trung trên quy mô rộng lớn, cùng với việc sử dụng lao động làm thuê. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp ở đây giống như mô hình hoạt động ở các công xưởng. Thực tế cho thấy sản xuất nông nghiệp tập trung lớn về quy mô và sử dụng nhiều lao động làm thuê, đã không mang lại hiệu quả kinh tế cao bằng các trang trại vừa và nhỏ. Tiếp theo Nước Anh là các Nước Pháp, Hà Lan, Đan Mạch. Kinh tế trang trại cũng được phát triển mạnh tạo ra nhiều nông sản hàng hoá.
+ Nước Anh: “Năm 1950 có 453 nghìn trang trại, sau 34 năm (1987) số lượng trang trại giảm còn 254 nghìn. Tốc độ giảm bình quân hàng năm là 2,1%. Diện tích bình quân của trang trại có xu hướng tăng lên 36 ha (1950) lên 71ha (1987) một lao động nông nghiệp ở Anh nuôi được 95 người [1]”.
+ Ở Pháp: “Năm 1955 có 2.285 triệu trang trại, đến 1993 giảm còn 801 nghìn trang trại, tốc độ giảm bình quân hàng năm là 2,7%, trong khi đó quy mô của các trang trại tăng từ 14ha (1955) lên 35,1ha (1993). Trong những năm 1990 các trang trại ở Pháp đã tạo ra giá trị sản xuất nông sản nhiều gấp 2,2 lần so với nhu cầu trong nước (hạt ngũ cốc 95%, sữa 70-80%, rau quả trên 70%) [3]”.
+ Ở Hà Lan: “Năm 1987 có 128 nghìn trang trại, trong đó có 1.500 trang trại chuyên trồng hoa với sản lượng sản xuất hàng năm khoảng 7 tỷ
bông hoa (70% dành cho xuất khẩu), bình quân 1 lao động nông nghiệp trong trang trại làm ra sản lượng nông sản có thể nuôi được 60 người. Quy mô diện tích bình quân của trang trại từ 7 ha (1950) lên 16 ha (1987) [2]”.
Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở một số nước Châu Á
Ở châu Á, chế độ phong kiến kéo dài cho nên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá ra đời chậm hơn. Tuy vậy, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sự xâm nhập của tư bản phương tây vào các Nước Châu Á, cùng với việc xâm nhập của phương thức sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa, đã làm nẩy sinh hình thức kinh tế trang trại trong nông nghiệp. Trong quá trình phát triển kinh tế trang trại ở các nước trên thế giới đã có sự biến động lớn về quy mô, số lượng và cơ cấu trang trại.
“Đặc biệt các nước vùng Đông Á như: Đài Loan 0,047 ha/người, Malaysia 0,25 ha/người, Hàn Quốc 0,053 ha/người, Nhật Bản 0,035 ha/người.. các nước châu á có nền kinh tế phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan sự phát triển kinh tế trang trại cũng theo quy luật, số lượng trang trại giảm và quy mô diện tích tăng. Ví dụ: ở Nhật bản năm 1950 số lượng trang trại là
6.176.000 trang trại đến năm 1993 chỉ còn 3.691.000 trang trại và diện tích bình quân năm 1950 là 0,8ha, năm 1993 tăng lên là 1,38ha [11]”.
Phần lớn các nước Châu Á nền kinh tế còn ở trình độ thấp đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá. Trừ một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và lãnh thổ như Đài Loan... có nền kinh tế phát triển nên tác động của công nghiệp vào nông nghiệp của trang trại rất mạnh mẽ. “Ở Nhật Bản, năm 1950 số trang trại là 6.176.000, năm 1993 là 3.691.000. Số lượng trang trại giảm bình quân hàng năm 1,2%. Diện tích trang trại bình quân năm 1950 là 0,8ha, năm 1993 là 1,38 ha, tốc độ tăng diện tích bình quân hàng năm 1,3%, ở Đài Loan, năm 1955 số trang trại là 744,000 năm 1988 là 739.000. Tốc độ trang trại giảm bình quân 0,02%. Diện tích trang trại bình quân năm 1955 là 1,12 ha năm 1988 là 1,21 ha. Tốc độ tăng diện tích trang trại bình quân hàng năm
0,2%, ở Hàn Quốc, năm 1953 có 2.249.000 trang trại, năm 1979 giảm xuống
1.172.000 trang trại. Số lượng trang trại giảm bình quân hàng năm 0,7%, diện tích bình quân của trang trại tăng bình quân hàng năm là 0,9% [6]”.
Do bình quân ruộng đất thấp nên ở một số nước và lãnh thổ Châu Á, Nhà nước đã quy định mức hạn điền với nông dân như ở Nhật Bản, Hàn Quốc (không quá 3 ha) Ấn Độ (không quá 7,2 ha). “Ở Nhật Bản năm 1990 số trang trại dưới 0,5 ha chiếm 41,9%, từ 0,5% ha đến 1 ha chiếm 30,7% trên 1 ha chiếm 25,6%. Ở Hàn Quốc năm 1985 diện tích trang trại dưới 0,5 ha chiếm 29,7%; từ 0,5 đến 1 ha chiếm 34,7% trên 1 ha chiếm 35,6% [4]”.
Như vậy ở Châu Á nói chung hiện tượng tích tụ ruộng đất diễn ra chậm nên tình trạng phân tán manh mún ruộng đất cũng là một trong những trở ngại trong vấn đề phát triển kinh tế trang trại. Trong sự phát triển kinh tế trang trại gia đình, vấn đề tích tụ ruộng đất để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh không chỉ chịu sự tác động từ cạnh tranh, phân hoá mà còn chịu tác động từ chính sách luật pháp của Nhà nước.
Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở một số nước Châu Mỹ
Nước Mỹ là nơi có kinh tế trang trại rất phát triển. Vào năm 1950 ở Mỹ có 5.648.000 trang trại và giảm dần số lượng đến năm 1960 còn 3.962.000. Trong khi đó diện tích bình quân một trang trại tăng lên, năm 1950 là 56ha, năm 1960 là 120ha, năm 1992 là 198,7ha.
Như vậy ở các nước Tây Âu và Mỹ số lượng trang trại đều có xu hướng giảm nhưng về quy mô diện tích lại có xu hướng tăng lên, còn ở châu Á số lượng trang trại lại có xu hướng tăng lên.
(Nguồn Hoàng Văn Hoa, Hoàng Thị Quý, Phạm Huy Vinh (1999), Quá trình phát triển kinh nghiệm trang trại ở Việt nam và một số nước trên thế giới)
1.4.2. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
1.4.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam qua các thời kỳ.
- Kinh tế trang trại Việt Nam thời kỳ phong kiến
“Trong thời kỳ này đã có chính sách khai khẩn đất hoang bằng cách lập
các đồn điền, doanh điền được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như: điền trang, điền doanh, thái ấp [9]”.
- Kinh tế trang trại Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
“Mục đích chủ yếu của thực dân Pháp thời kỳ này là khai thác thuộc địa, cho nên thực dân Pháp đã ban hành một số chính sách như: chính sách ruộng đất, chính sách thuế, nhằm thiết lập các đồn điền để tăng sức sản xuất ở khu vực thuộc địa. Năm 1927 chỉ riêng ở Bắc kỳ đã có tới 155 đồn điền rộng từ 200ha đến hơn 8.500ha. Nam Kỳ và Cao nguyên Trung Kỳ, nhiều tên thực dân đã có những đồn điền rộng hàng vạn ha. Đến năm 1930, số ruộng đất do thực dân Pháp chiếm để lập đồn điền đã lên tới 1,2 triệu ha tương đương khoảng 1/4 diện tích đất canh tác của ta lúc bấy giờ [9]”.
- Kinh tế trang trại Việt Nam thời kỳ từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975
+ Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển.
+ Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thống thủy lợi, cải tạo đồng ruộng nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây.
- Kinh tế trang trại Việt Nam thời kỳ 1975 đến nay
- Từ cuối những năm 1975 hiệu quả sản xuất trong nền kinh tế nói chung và trong ngành nông nghiệp nói riêng là thấp kém. Trong các hợp tác xã ở Miền Bắc dẫn tới khủng hoảng của mô hình tập thể hoá nông nghiệp. Trước tình hình đó Đảng đã có Đại Hội lần thứ VI (tháng 12/1986) đề ra được các chủ trương chính sách mới đặc biệt là cơ chế khoán gọn tới từng hộ gia đình, tiếp đến là Nghị Quyết 10 của Bộ chính trị (tháng 4 năm 1987) và cùng nhiều văn bản khác của Chính phủ, đã giải phóng sức lao động và các tư liệu sản xuất khác đặc biệt là đất đai. Việc đổi mới cơ chế chính sách này đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển.
- Sau Nghị Quyết 10 của Bộ Chính trị, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, Luật đất đai, Luật dân sự, luật doanh nghiệp, Luật đầu tư và các Nghị định nhằm thể chế hoá chính sách đối với kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khoá VII) năm 1993 đã chủ trương khuyến khích phát triển các nông, lâm, ngư trại với quy mô thích hợp. Luật đất đai năm 1993 và Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 cũng đã thể chế hoá chính sách đất đai đối với các hộ gia đình và cá nhân trong việc kinh doanh nông nghiệp. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 và sau đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá VIII) tiếp tục khuyến khích phát triển kinh tế trang trại với các hình thức khác nhau.
- Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, ở hầu hết các địa phương trong cả nước, kinh tế trang trại đã phát triển rất nhanh chóng. Nhiều địa phương đã có những chính sách cụ thể khuyến khích phát triển loại hình này.
- Cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại đã nhấn mạnh chủ trương của Chính phủ trong việc phát triển kinh tế trang trại.Tạo điều kiện hợp pháp cho loại hình kinh tế trang trại phát huy năng lực sản xuất, kinh doanh thông qua các chính sách ưu đãi về nhiều mặt đối với kinh tế trang trại.
- Theo số liệu điều tra sơ bộ của Tổng cục Thống kê, dựa vào hướng dẫn về khái niệm và tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại của Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn quy định mới tại Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011, đến hết năm 2017 nước ta có tổng số là 33.488 trang trại. Gấp 1,4 lần so với năm 2012 là 22.655. Sở dĩ số tăng tương đối nhỏ vì số lượng trang trại đã được xác định theo tiêu chí mới, nên một số trang trại cũ đến nay không được xếp hạng. Hiện nay kinh tế trang trại đã có sự phát triển khá nhanh trên quy mô toàn quốc.
- Mặt khác, hình thành các tiêu chí kinh tế trang trại nhằm tạo điều kiện quản lý, hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Như vậy sự hình thành kinh tế trang trại ở nước ta là sự vận động từ kinh tế nông hộ gắn liền với quá trình đổi mới của đất nước và quá trình hình thành kinh tế trang trại chứa đựng những đặc điểm sau đây:
Những đặc điểm về quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta:
- Sự hình thành kinh tế trang trại diễn ra với tốc độ nhanh, chủ yếu là những năm đổi mới, nhất là thời gian gần đây khả năng phát triển mạnh. Quá trình này hàm chứa xu hướng phát triển kinh tế hàng hoá, đi lên sản xuất lớn trong nông nghiệp, hướng đến thị trường là xu thế hợp với quy luật phát triển.
- Có nhiều thành phần kinh tế trong xã hội tham gia kinh tế trang trại nhưng nền tảng chủ yếu hình thành kinh tế trang trại là do vận động kinh tế hộ gia đình nông dân.
1.4.2.2. Một số kết quả và kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số địa phương của Việt Nam trong những năm qua
* Kinh nghiệm làm kinh tế trang trại ở Hải Dương
Phát triển trang trại ở tỉnh Hải Dương là một trong những kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng, nâng cao giá trị thu nhập/ha đất nông nghiệp. Cho đến nay, kinh tế trang trại ở Hải Dương đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng lại đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết, nhất
là trong xu thế hội nhập có nhiều cơ hội làm ăn nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ thất bát, phá sản.
Theo Chi cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn tỉnh Hải Dương, cho đến nay, toàn tỉnh Hải Dương có 859 trang trại. Trong đó có 591 trang trại sản xuất, kinh doanh tổng hợp; 140 trang trại chăn nuôi lợn và gia cầm; 45 trang trại thuỷ sản; 42 trang trại trồng cây lâu năm; 110 trang trại trồng cây ăn quả; 3 trang trại trồng cây cảnh... Hệ thống các trang trại đang sử dụng gần 2.200 ha đất, bình quân, mỗi trang trại sử dụng 2,56 ha và đấu tư cho sản xuất, kinh doanh trên 251 triệu đồng. Các trang trại đang sử dụng trên 4295 lao động. Bình quân mỗi trang trại sử dụng 5 lao động. Doanh thu của trang trại năm 2013 ước đạt trên 213 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trang trại ở Hải Dương phần lớn đang trong giai đoạn hoàn thành xây dựng cơ bản. Bởi vì phần lớn trang trại chỉ được lập trên cơ sở tận dụng đất thùng vũng, vượt lập ruộng một vụ bấp bênh. Hầu như không có trang trại được lập trên đất “nhất đẳng điền”. Hệ thống trang trại ở Hải Dương lại chưa có loại sản phẩm chủ yếu, làm chủ trên thị trường bằng thương hiệu. Quy mô trang trại bé, thu nhập từ 24 triệu đến 35 triệu đồng/năm vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong số các trang trại.
Tỉnh Hải Dương xây dựng mục tiêu đến năm 2018 có 1.100 trang trại.
Doanh thu từ trang trại tăng bình quân 20%/năm.
Để đạt được mục tiêu trên, trước mắt, tỉnh Hải Dương đã dần hoàn thiện hơn khâu xây dựng cơ bản của các loại hình trang trại. Cụ thể, 100% trang trại được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm tạo cho các chủ trang trại thế chấp vay vốn ngân hàng đầu tư cho sản xuất; đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng như đường giao thông, đường điện, hệ thống tiêu thoát nước. 100% chủ trang trại được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý kinh tế. Lao động làm việc trong trang trại được tập huấn chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công việc. Tỉnh Hải Dương chủ trương miễn tiền thuê đất phát triển trang trại chăn nuôi tập trung xa nơi dân cư trong thời gian 3 năm đầu và giảm 50% tiền thuê đất cho 5 năm tiếp theo. Kinh phí làm đường giao thông, đường