Đây là quy ước và phong tục của nước Vũ. | Ñoái cô | ||||
35 | Tử Kỳ | 1 | Người thời Chiến quốc, rất sành âm luật, là bạn | Vạn | Tuệ |
(Chung | tri kỷ của Bá Nha. Nghe Bá Nha đánh đàn, ông | vật | Trung | ||
Tử Kỳ) | biết trong lòng Bá Nha đang nghĩ đến non cao | bất | |||
hay nước chảy. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha bỏ | năng | ||||
đàn không gảy nữa vì không còn ai là tri kỷ. | dung | ||||
36 | Ca | 1 | Vốn là một tên khác của sông Hán Thuỷ, về sau | Phóng | Tuệ |
Thương lang (Hát | có thêm một nghĩa tượng trưng: khúc hát của làng chài. Sách Mạnh Tử, Ly lâu ghi “Thương | cuoàng ngâm | Trung | ||
khúc | Lang chi thuỷ thanh hề khả dĩ trạc ngã anh, | ||||
Thương | Thương Lang chi thuỷ trọc hề khả dĩ trạc ngã | ||||
lang) | túc” (Nước Thương Lang trong có thể giặt giải | ||||
mũ của ta. Nước Thương Lang đục có thể rửa | |||||
chân ta.). | |||||
37 | Song phi | 1 | Xuất xứ từ câu thơ Nhật nguyệt chuyển song cốc, | Ñoái | Tuệ |
cốc (Đôi | Cổ kim đồng nhất khâu” (Mặt trời mặt trăng | cô | Trung | ||
vành | chuyển vần như hai bánh xe. Xưa nay người ta | ||||
chuyển) | đều trở về một nấm mồ). Cả hai câu của Tuệ | ||||
Trung nói: Nếu đã hiểu sự vận hành của thời | |||||
gian là nhanh chóng không cưỡng được, thì sự | |||||
sống chết của con người chỉ như một chút bọt | |||||
giữa biển cả, không cần gì phải lo lắng. | |||||
38 | Trường Phòng | 1 | Tức Phi Trường Phịng người đời Hậu Hán có thuật Thần tiên, cưỡi cái gậy trúc, tha hồ đi đó đi đây, hoá xa thành gần, đường nghìn dặm ở ngay trước mắt. Tuệ Trung mượn ý này để nói Hương Nghiêm là người đã đạt tới chỗ hoàn toàn tự tại. | Ñoái cô | Tuệ Trung |
39 | Khổng Nhân | 1 | Tức Khổng Phương Nhân. Theo Tân luận thì Khổng Phương Nhân có tài xem ngựa. Lúc con ngựa còn chưa chạy “chạy không trông thấy | Ñoái cô | Tuệ Trung |
Có thể bạn quan tâm!
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 40
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 41
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 42
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 44
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 45
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 46
Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.
bóng”, mà ông đã thấy hết cái nhanh của thế chân ngựa. | |||||
40 | Tiết chúc (Một người sành kiếm) | 1 | Cũng theo Tân luận, ông này là người sành xem kiếm. Khi thanh kiếm chưa “chém con huyền tê ở trên cạn”, chưa “chém sợi lông nhẹ ở dưới nước” (tiệt vũ), nhưng ông đã thấy hiện ra cái thế sắc bén của thanh kiếm. Ý của cả hai câu trên đây: Sở dĩ người ta “vô thức” và “vô tri” là vì người ta chưa có cái “thức” của Khổng Nhân và cái “tri” của Tiết Chúc. | Ñoái cô | Tuệ Trung |
41 | Hàm đan học bộ (Hàm Đan học bộ) | 1 | Tức “Hàm Đan học bộ” học đi ở đất Hàm Đan. Theo Thành Huyền Anh, người ở Hàm Đan kinh đô nước Triệu, đi rất giỏi, nên những người tuổi trẻ ở nước Yên từ xa đến học. Nhưng chưa học được cách đi của người Hàm Đan thì đã quên mất bản tính của mình. Ý cả hai câu thơ trên muốn nói: Phải tuỳ theo căn cơ của mình mà ngộ đạo, chứ đừng nên gượng ép, bắt chước, nhất định thất bại. | Ñoái cô | Tuệ Trung |
42 | Quân vương hạ thức đấu oa trì (Vua chúa xuống xe chào ếch bướng) | 1 | Câu này xuất phát từ điển cố sau: Vua nước Việt sắp đánh nước Ngô, muốn cho quân sĩ dũng cảm xông trận, nên khi ra đi, thấy con ếch có nộ khí ở bên đường, ông liền xuống xe kính cẩn chào. Người hầu hỏi: Vì cớ gì bệ hạ làm vậy? Vua đáp: Vì con ếch có dũng khí. Sĩ tốt nghe vậy liền nói con ếch có dũng khí vua còn kính trọng, huống chi là người. Cả câu chỉ muốn nói rằng người tu tập Thiền định cần coi trọng dũng khí. | Ñoái cô | Tuệ Trung |
43 | Phạm Lãi thuyền | 1 | Theo Sử ký, Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn diệt nước Ngô thì bỏ quan lênh đênh trên thuyền | Ñoái cô | Tuệ Trung |
vùng Ngũ Hồ. Cũng vậy, câu trả lời của Tuệ Trung muốn nói: nếu không tu tập Thiền định thì tha hồ tự do. | |||||
44 | Liên xã tán my (Liên xã chau maøy) | 2 | Theo Lư sơn ký của Chu Tục Chí thì sư Viễn sai Uyên Minh đi vào Liên Xã, ông chau mày mà đi. Ý tứ của điển này là mọi người phải tuỳ theo số phận (nghiệp qủa của mình mà có hành động và cách sống thích hợp với môi trường sống.). | Tụng cổ, Trừu thần ngâm | Tuệ Trung |
45 | Vũ Lăng (Tên một dòng suối Hà Nam) | 1 | Theo Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm đời Tấn thì một người đánh cá vì lạc lối mà men theo suối Vũ Lăng đến hẻm rừng hoa đào, một nơi có đời sống hoàn toàn tự đó là con cháu của những người ngàn năm trước tránh nhà Trần tàn bạo vào đây, rồi từ đó cách biệt với thế giới bên ngoài. | Tụng cổ | Tuệ Trung |
46 | Thác chi (Một điệu múa) | 1 | Theo Từ phả thì đây là một điệu múa gồm hai người con gái, đầu đội mũ gắn nhạc đồng, trong một đoá hoa sen rất lớn. Khi đoá sen mở, hai người xuất hiện và cùng nhau múa. “Mộc nhân vũ thác chi” là điển người gỗ múa vũ điệu “thác chi” chỉ cho con người không tự kiểm soát thân tâm. | Tụng cổ | Tuệ Trung |
47 | Liễu ngự hoa cung (Liễu vườn ngự, hoa trong cung) | 1 | Tác giả mượn ý trong câu thơ Hàn Duy đề thành Tây: “Ngự liễu sơ trưởng, già cẩu trĩ, Cung hoa vị thức hãi du nhân.” (Cành liễâu ở vườn ngự mới dài che chim trĩ đang kêu, Hoa ở trong cung chưa tỉnh làm sợ hãi người du khách.). | Tụng cổ | Tuệ Trung |
48 | Huyền Thiên | 1 | Theo Công dự tiệp ký, động ở trên dãy núi thuộc xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, nay thuộc tỉnh Hải | Đề Huyền | Trần Thánh |
(Tên một | Hưng của nước ta. | thiên | Tông | ||
cái động | Đời Trần, đạo sĩ Huyền Vân tu hành và có nhiều | động | |||
mà đạo sĩ | công đức ở đấy, nên vua đặt tên là động Huyền | ||||
Huyền | Thiên. | ||||
vân tu) | |||||
49 | Thiên | 1 | Sách Tương Dương ký chép: Lý Hành trồng | Hạnh | Trần |
hàng nô | nghìn cây quýt và bảo con rằng “cha đã có một | thiên | Thánh | ||
bộc | nghìn tôi tớ, hẳn không phải phiền các con cung | trường | Tông | ||
(Nghìn | cấp cơm áo”. Câu này lấây ý ở điển ấy. | hành | |||
hàng tôi | cung | ||||
tớ) | |||||
50 | Hải ngân | 1 | Trong thơ của Tô Thức có câu: “Đống hợp ngọc | Đề | Trần |
(Đôi mắt) | lâu hàn khởi lật, Quang giao ngân hải huyễn sinh | Cổ | Nhân | ||
hoa.” Các nhà chú giải giảng rằng: Kinh của Đạo | Châu | Tông | |||
giáo gọi xương vai là ngọc lâu và mắt là ngân hải. | Hương | ||||
Ở đây có lẽ chính là ngân hải nhưng vì niêm vận, | thôn | ||||
tác giả phải đổi ngược lại thành hải ngân chăng? | tự | ||||
51 | Đào Sinh | 1 | Theo Từ Hải, ở Tứ Xuyên, Trung Hoa, có loại | Nhò | Trần |
trúc đạm | đào sinh trúc đốt dài, vỏ mềm có thể làm chiếu | nguyệt | Nhân | ||
(Chiếu làm bằng loại đào sinh đan bằng trúc đốt dài | với kỹ thuật cao, trông rất đẹp và có giá trị hữu dụng, nên người ta gọi là thứ chiếu đan bằng trúc Tứ Xuyên là “đào sinh”. Ý nói tình cảm con người thường được thể hiện bằng cả tấm lòng | thập nhất nhật dạ | Tông | ||
Tứ Xuyên) | chân thật với sự quan tâm lẫn nhau thật đẹp. | ||||
52 | Hằng Nga (Vợ Hậu Nghệ) | 1 | Theo sách Hậu Hán thư, vợ Hậu Nghệ là Hằng Nga (còn có tên là Thường Nga) lấy trộm thuốc trường sinh của chồng rồi bay lên cung trăng, bị hoá thành con cóc (thiềm thư ). Do đó mặt trăng có tên là cung thiềm. | Tảo mai | Trần Nhân Tông |
53 | Quế lãnh Thiềm hàn | 1 | Sách Dậu dương tạp trở chép; trong trăng có cây quế, cao 500 trượng. Vì thế cung quế cũng là tên | Tảo mai | Trần Nhân |
(Quế lạnh cung Thiềm) | gọi măt trăng. | Tông | |||
54 | Thuý vũ ca (Tên một từ khúc) | 1 | Tức Thuý vũ ngâm, tên một từ khúc ngâm này còn thấy ở bài Trúc sơn từ của Tưởng Tiệp. Lời đề tựa của ông nói: Vương Quân Bản trao cho ta một khúc hát theo Việt điệu tên là Tiểu mai hoa dẫn, bảo ta lấy ý bay lên Tiên, bước trong cõi hư không mà làm lời cho khúc hát… | Tảo mai | Trần Nhân Tông |
55 | Hoạ Long (Tiếng sáo Hoạ Long) | 1 | Có lẽ là một loại sáo hay tù và có vẽ hình con rồng. Từ Hải dẫn lời của Thẩm Ước, Từ Quảng nói rằng tù và của người Hồ chỗ tay cầm vẽ con giao long có chân năm sắc. | Tảo mai | Trần Nhân Tông |
56 | Nhất chi xuân (Một cành xuân) | 1 | Rút từ câu thơ của Lục Khải tặng Phạm Việp. “Chiết mai phùng dịch sứ, Ký dữ lũng đầu nhân. Giang Nam hà sở hữu. Liêu tặng nhất chi xuân.” (Bẻ cành hoa mai, gặp được người đưa thư trạm, gửi cho người ở Lũng Đầu. Đất Giang Nam có gì đâu, hãy tặng anh một cành xuân.). Nhưng ở đây tác giả chỉ có cành mai trong giấc mộng nên không thể đem tặng bạn được. | Tảo mai | Trần Nhân Tông |
57 | Canh | 1 | Theo sách Hậu Hán thư vua nghiêu mất, vua | Phủ | Trần |
tường | Thuấn tưởng nhớ luôn trong ba năm, vì thế lúc | Thiên | Nhân | ||
(Trông | ngồi thấy hình dáng vua Nghiêu ở mặt tường, lúc | Trường | Tông | ||
tường thấy | ăn thấy hình bóng ở bát canh. Ở đây tác giả | ||||
bóng, ăn | mượn điển ấy để miêu tả lòng nhớ vua cha (tức | ||||
canh thấy | Thánh Tơng). | ||||
hình) | |||||
58 | Cầm điện ngũ huyền (Đàn cầm năm dây) | 1 | Sách Lễ nhạc ký chép: Ngày xưa vua Thuấn làm đàn cầm năm dây để ca bài ca Nam phong. Trong bài ca có câu: “Gió Nam hoà ấm có thể giải được sự oán giận của dân ta, gió Nam hợp | Tặng Bắc sứ Lý Tư | Trần Nhân Tông |
thời có thể làm giàu của cải của dân ta.”. | Diễn | ||||
59 | Vân thong | 1 | Lấy từ câu “Bạch vân thương cẩu” nói hình dạng | Đại | Trần |
đẩu (Mây | những đám mây trắng trên trời luôn thay đổi, lúc | Lãm | Nhân | ||
trắng chó | thì như hình con chó rồi lại tan rất nhanh. Người | Thần | Tông | ||
xanh – nói | ta hay mượn điển này để nói sự biến đổi của | Quang | |||
sự biến | cuộc đời. Thơ Đỗ Phủ cũng có câu: “Thiên | tự | |||
đổi của | thượng phù vân như bạch y, Tư tu biến ảo vi | ||||
cuộc đời) | thương cẩu.” (Mây nổi trên trời như chiếc áo | ||||
trắng, trong chốc lát biến thành chó xanh.) | |||||
60 | Thập nhị | 1 | Nơi ở của thần tiên. Theo Thiên Giao Tự chí | Đại | Trần |
lâu đài | trong Hán thư thì có một phương sĩ nói thời | Lãm | Nhân | ||
(Mười hai | Hoàng Đế có làm năm thành và mười hai toà lâu | Thần | Tông | ||
toà lâu | đài để đợi một vị Thần tên là Nghinh Niên. | Quang | |||
đài) | tự | ||||
61 | Sách ký án đồ (So tranh tìm ngựa) | 1 | Bá Nhạc là một người giỏi xem tướng ngựa, ông viết quyển Tướng Mã kinh. Con ông theo quyển sách đó đi mua ngựa, nhưng cuối cùng chỉ mua được một con ngựa tồi, không cưỡi được. Bá Nhạc bảo: Sở dĩ như vậy là vì con ông đã án đồ sách tuấn: còn gọi là án đồ sách ký. Điển cố này cũng như điển trên thường để nói chỉ những người máy móc, rất câu nệ, không linh hoạt. | Hữu cú Vô cú | Trần Nhân Tông |
62 | Khắc chu | 1 | Sách Lã thị Xuân thu ghi: Có một người nước Sở | Hữu cú Vô cú | Trần |
cầu kiếm | đi đò qua sông. Giữa chừng đánh rơi kiếm xuống | Nhân | |||
(Khắc | nước. Anh ta vội đánh dấu vào mạn thuyền, khi | Tông | |||
thuyền | thuyền đến bến, anh ta nhảy xuống, theo dấu ở | ||||
tìm kiếm) | mạn thuyền mò kiếm. | ||||
63 | Thủ thù đãi khố (Ôm cây | 1 | Sách Hàn Phi Tử ghi: Nước Tống có một người cày ruộng. Một hôm, anh ta đang cày thì một chú thỏ con từ trong bụi nhảy ra, va gốc cây mà | Hữu cú Vô | Trần Nhân Tông |
đợi thỏ) | chết. Từ đó anh ta bỏ cày, ôm gốc cây ngồi chờ, đợi mãi chẳng được con thỏ nào đến, lại bị người nước Tống chê cười. | cú | |||
64 | Thổ phượng chi tài (Tài nhả phượng) | 1 | Lấy ý từ điển Dương Hùng nằm mơ thấy nhả ra con phượng trắng và thơ Lý Thương Ẩn đời Đường | Yếu minh học thuật | Pháp Loa |
65 | Tưởng Hủ (Người đời Hán) | 1 | Người đời Hán, ở đất Đỗ Lăng, làm Thứ sử Duệ Châu thời Ai Đế. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Tưởng Hủ cáo quan về nghỉ. Dưới hàng trúc trước nha, ông mở ba lối đi hẹp dành riêng cho đôi bạn tri kỷ là Cầu Trọng và Dương Trọng theo lối đó đến chơi. | Cúc hoa | Huyền Quang |
66 | Tây hồ xử sĩ (Hàn Thế Trung đời Tống) | 1 | Ông là người Diên An tự là Lương Thần là một người có nhiều võ công. Trong cuộc kháng chiến chống nhà chống nhà Kim, thấy Tần Cối chủ hoà, triều đình nhu nhược, ông bỏ quan, mang rượu đi ngao du Tây hồ để khuây khoả. Sau khi chết được ban tên thụy là Trung Vũõ. | Cúc hoa | Huyền Quang |
67 | Đông ly (Hoa ở giậu phía Đông) | 1 | Tức hoa cúc. Thơ Đào Tiềm đời Tấn (Trung Hoa) có câu “Thái cúc Đơng ly hạ” (Hái cúc ở dưới dậu phía Đông.) Vì thế người sau dùng chữ Đơng ly để gọi hoa cúc. | Cúc Hoa | Huyền Quang |
68 | Đỗ Mục (nhà thơ đời Đường) | 1 | Đỗ Mục có một người bạn tên là Trân. Vợ Trân rất nghiêm nghị, ba năm không cười một lần. Trân đem chuyện này phàn nàn với bạn. Các bạn ông bày cho một kế; nhân tiết trùng dương đi chơi núi, khi về hái hoa cúc dắt đầy đầu làm cho vợ thấy ngộ nghĩnh phải bật cười. Lần ấy vợ Trân cười vui vẻ. Đỗ Mục nhân đó làm bài thơ tuyệt cú. Trong đó có câu: “Trần thế nan phùng | Cúc hoa | Huyền Quang |
khai khẩu tiếu, Cúc hoa tu tháp mãn đầu qui.” (Trên đời khó gặp được lúc mở miệng cười, Hãy cắm hoa cúc đầy đầu mà trở về). Huyền Quang mượn câu chuyện đó để chê những người không biết thưởng thức hoa mà ngắt hoa tuỳ tiện. |