Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 41





ta”. Tuyết Phong không nói gì, gieo một bó củi trước mặt sư. Sư nói “Nặng nhiều ít”. Đáp

“Người cả thiên hạ nâng không nổi”.



115

Lộc đào

1

Nói về thiền sư Linh Vân, cao tăng đời Đường,

Trần


hoa


tu ở núi Linh Vân, Phúc Châu, nên có hiệu Linh

trần

Nhân




Vân, còn gọi Chí Cần. Theo Ngũ Đăng hội

lạc

Tông




nguyên, lúc đầu theo học với Quy Sơn. Một

đạo





hôm, sư nhìn thấy hoa đào nở, bỗng nhiên giác

phú





ngộ và làm một bài kệ. “Tam thập niên lai tầm






kiếm khách, Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi. Tự






tòng nhất kiến đào hoa hậu, Trực đáo như kim






cánh bất nghi.” (Ba mươi năm qua ta như người






khách đi tìm gươm, Đã mấy phen hoài công làm






rụng lá lay cành, Từ sau khi được thấy hoa đào






nở, Cho đến hôm nay thực không còn chút nghi






ngờ gì nữa.)



116

Nghe

1

Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, điển này




tiếng trúc


xuất xứ từ công án Hương Nghiêm kích trúc nói




về sư Hương Nghiêm nghe tiếng trúc vọng ra




khi ông ném hòn đá vào thân cây trúc mà ngộ




đạo. Cảnh Đức Truyền đăng lục 2 (Đại 51, 283




hạ) ghi “Ta không hỏi người về học giải và




những điều ghi trên kinh điển sách vở bình sinh




người đạt được mà Ta chỉ hỏi “Khi cha mẹ chưa




sinh ra ngươi, ngươi hãy thử nói một câu xem?”.




Sư đáp lại nhưng không khế hợp, liền trở về tìm




khắp trong các kinh điển ngữ cú của Phật Tổ,




nhưng một lời giải thích có thể đối đáp được. Sư




liền đến thiền sư Quy Sơn cầu chỉ dạy, nhưng




thiền sư Quy Sơn nói rằng “Nếu ta nói cho ông




biết, về sau ông ta sẽ mắng ta; Vả lại, ta nói là

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.

Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 41





việc của ta, không có liên quan đến việc của ông”. Do đó, sư đốt hết sách vở, nghẹn ngào từ biệt Tổ Quy Sơn, đến Nam Dương, gặp di tích của quốc sư của Tuệ Trung, liền dừng chân lập am tranh ẩn tu. Một hôm đang dọn cỏ trong núi, sư ném viên gạch ra xa chạm vào bụi trúc phát ra tiếng. Sư hoát nhiên đại ngộ, liền trở về tắm rửa, đốt hương từ xa, đảnh lễ Tổ Quy Sơn và tán thán “Hoà thượng đại bi, ân đức lớn hơn cả cha mẹ, khi đó nếu ngài nói ra thì làm sao con

có sự viêc hôm nay”.




BẢNG THỐNG KÊ ĐIỂN CỐ NHO GIA


SOÁ

TT

TÊN ĐIỂN

COÁ

SOÁ

LẦN

NGUOÀN GOÁC

TÁC

PHẨM

TÁC

GIẢ

1

Ngọc

1

Ngọc quỳnh, là một thứ ngọc quý, người xưa

Tiễn

Trần


quỳnh


dùng để tặng nhau biểu lộ tình cảm thân thiết.

sứ Bắc

Thái


(một thứ


Điển này xuất xứ bài Mộc Qua trong Kinh Thi.

Trương

Tông


ngọc quý)


Tác giả Vệ Phong có viết “Đầu ngã dĩ mộc đào,

Hiển





Báo chi dĩ quỳnh dao.” (Tặng ta quả mộc đào,

Khanh





Ta đáp lại bằng ngọc quỳnh dao.). Ở câu thơ






này có lẽ tác giả Trần Thái Tơng muốn nói






mình không có vần thơ để đáp lại.



2

Khuynh

1

Sách Gia ngữ chép Khổng Tử sang đất Đàm,

Tiễn

Trần


cái


gặp Trình Tử ở dọc đường, hai người nghiêng

sứ Bắc

Thái


(Nghiêng


lọng nói chuyện với nhau suốt ngày. Nguyên

Trương

Tông


lọng)


nghóa “Khuynh cái” chỉ cuộc gặp mặt trên

Hiển





đường đi, ở đây tác giả dùng để chỉ việc gặp

Khanh





gỡ.



3

Bôi quyên chi mộ (Niềm nhớ mẹ)

1

Bôi quyên là cái chén, cái môi. Kinh Lễ chép “Mẫu một nhi bôi quyên bất năng ẩm yên” (Mẹ chết, cái chén cái môi không nỡ uống). Ý nói đến cái hiếu đạo của Trần Thái Tơng khi mất

mẹ.

Thiền Tơng chỉ nam tự

Trần Thái Tông

4

Sang cự

chi tâm (Lòng thong cha)

1

Sang cự là vết thương lớn, xuất xứ từ chữ “Sang cự thống tâm” (Vết thương đau xót) trong Kinh Lễ. Ý tác giả ví nỗi đau xót mất cha như một

vết thương lớn

Thiền Tơng chỉ nam tự

Trần Thái Tông

5

Tề Lỗ

nhất chi

1

Tác giả lấy ý từ câu “Tề nhất biến chí ư Lỗ, Lỗ

nhất biến chí ư đạo.” (Nước Tề một lần thay đổi

Kim cương

Trần

Thái



biến (Lỗ

Tề thay đổi)


thì đến được như nước Lỗ, Nước Lỗ một lần thay đổi thì đến được đạo.) trong Luận ngữ, thiên Ưng dã.

tam muội kinh

Tông

6

Ly Lâu, Sư

1

Theo sách Mạnh Tử (Mạnh Tử, chủ trương

Phổ

Trần


Khoáng


trọng nhân nghĩa, ghét công lợi đề xướng

thuyết

Thái


(Tên Người có biệt tài nổi tiếng).


thuyết con người vốn bản tính thiện. Ông là học trò của Khổng Tử, sống vào thời Chiến quốc). Ly Lâu cũng còn gọi là Ly Chu, người thời vua

Tứ sơn

Tông




Hoàng Đế, có con mắt rất sáng, nhìn xa ngoài






trăm bước mà thấy từng mảy lông. Sư Khống






là một nhạc sư đời Tấn thời Xuân Thu, tên chữ






là Tử Dã, có thể nghe tiếng nhạc mà biết được






cát hung. Ý nói dù tài giỏi đến đâu cũng bị già






nua, vô thường biến hoại.



7

Thập thất chi

1

Điển này lấy ý từ một mệnh đề trong Luận ngữ,

Phổ

Trần


ấp, thượng hữu trung tín (Trong ấp

mười nóc,

còn có người


thiên Công Dã Tràng “Thập thất chi ấp, thượng hữu trung tín” (Trong ấp mười nóc, còn có người trung tín) như Khâu (Khổng Tử) này vậy.

khuyến phát Bồ đề

tâm

Thái Tông


trung tín)



văn


8

Nhan Hoài

1

Là học trò giỏi của Khổng Tử, cũng gọi là

Toạ

Trần


(Học Trò


Nhan Uyên. Xuất thân con nhà nghèo, sống rất

Thiền

Thái


Khổng


thanh bạch nhưng vẫn vui với đạo, Nhan Hồi

luận

Tông


Tử, còn có


được Khổng Tử yêu mến, thường khen là gần




tên là


đạt chữ Nhân. Trước Khổng Tử, Nhan Hồi




Nhan


không bày tỏ ý kiến của mình, nhưng ông rất




Uyển)


lĩnh hội ý kiến của thầy. Nhan Hồi toạ vong, ý






nói Nhan Hồi ngồi ngay ngắn, tâm vẳng lặng,






quên cả vật cả mình, vượt cả tướng sai biệt, tâm






cảnh dung thông vô ngại. Thơ Bạch Cư Dị viết






“Hành Thiền dữ toạ vong, đồng quy vô dị lộ” .




9

Trinh vó

ngư Vũ

môn bất

dị (Cá

đuôi đỏ

Vũ môn không dễ có)

1

Theo Kinh Thi, thiên Chu nam, bài Nhữ phần, có câu “Phường ngư trinh vĩ, vương thất như huỷ” (Cá mè đỏ đuôi, việc nhà vua như lửa). Còn Vũ Môn tức Long Môn, là một nơi rất hiểm trở. Theo Tam Tần ký thì các loài cá con nào vượt qua được nơi đây đều hoá rồng. Ở đây, ý tác giả muốn nói Xử sĩ (hạc) thì có nhiều, nhưng vượt qua được khó khăn trong lúc tu hành thì ít, cũng như loài cá vượt qua Vũ

môn vậy.

Trữ Từ tự cảnh văn

Tuệ

Trung

10

Chiêm chi

1

Bài này Trần Nhân Tông lấy ý từ trong sách

Tán

Trần


tại tiền


Luận ngữ, thiên Tử Hãn, là lời Khổng Tử ca

Tuệ

Nhân


(Nhìn lại


ngợi cái “đạo”. Nguyên văn như sau “Ngưỡng

Trung

Tông


thấy phía


chi di cao, Toàn chi di kiên, Chiêm chi tại tiền,

Thượng



trước


Hốt yên tại hậu” (Nhìn lên càng thấy càng cao,





dùi vào càng thấy càng cứng. Bỗng nhiên vừa ở






phía trước, nhìn lại đã thấy ở phía sau).




BẢNG THỐNG KÊ ĐIỂN CỐ LÃO TRANG


SOÁ

TT

TÊN ĐIỂN

COÁ

SOÁ

LẦN

NGUOÀN GOÁC

TÁC

PHẨM

TÁC

GIẢ

1

Man Xúc

1

Điển ở sách Trang Tử, thiên Tắc dương, nước

Kim

Trần


chi tương


Man và nước Xúc là hai nước nhỏ, ở trên hai

cương

Thái


trì (Man


sừng con ốc sên. Vậy mà hai bên cứ đánh nhau

tam

Tông


Xúc tranh


mãi để tranh giành đất.

muội



giành)



kinh


2

Thác thược (Lò bể)

1

Dịch chữ Thác thược: cái ống bễ của thợ rèn. Sách Lão Tử, chương 5 có câu “Thiên địa chi gian kỳ do thác thược hồ?” (Giữa khoảng trời và đất, có lẽ như lò bễ chăng? Ở đây, tác giả mượn hình tượng này để nói sự nhào nặn của trời và

đất.

Phổ thuyết Tứ sơn

Trần Thái Tông

3

Đăng đầu

1

Ý nói những điều lợi nhỏ mọn. Đăng đầu, đầu

Phổ

Trần


oa giác


con nhặng, trong một từ của Tô Thức có câu

thuyết

Thái


(Sừng sên


“Đăng đầu vi lợi, nghĩa là điều lợi nhỏ như đầu

sắc

Tông


đầu


con nhặng, Oa giác sừng con ốc sên”. Điển này

thân



nhặng)


ở sách Trang Tử.



4

Ngô sở dĩ

1

Điển này lấy từ lời của Lão Tử trong sách Lão

Phổ

Trần


hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân (Ta sở hữu có

điều lo lớn là


Tử, chương 13, Đạo đức kinh. Lão Tử, nhà triết học biện chứng vĩ đại của Trung Hoa, ông sống vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên.

khuyến phát Bồ đề tâm văn

Thái Tông


vì ta có cái






thân)





5

Tử Cơ ẩn kỷ (Tử Cơ

1

Sách Trang Tử, Tề Vật luận chép “Nam Quách

Tử Cơ, tựa ghế mà ngồi, ngửa mặt lên trời xem hơi thở (ẩn kỷ nhi toạ, ngưỡng thiên nhi hư.).

Toạ Thiền

luận

Trần Thái



dựa ghế)




Tông

6

Bằng đoàn nhất phấn đáo Nam minh (Chim bằng vỗ cánh vượt muôn

trùng)

1

Điển này xuất xứ từ sách Trang Tử, thiên Tiêu Dao Du. Nguyên văn “Bằng chi tỉ ư Nam minh dã, thuỷ kích tam thiên lý, đoàn phù dao nhi thướng giả, cửu vain lý.” (Chim bằng rời khỏi bể Nam, đập cánh xuống nước ba nghìn dặm rồi nương theo gió xoáy mà lên cao chin vạn dặm.). Điển cố này thường dùng đển tả sự bay cao, đi xa, cũng để ví với chí khí cao siêu, bay bổng.

Niêm tụng kệ

Trần Thái Tơng

7

Thiên lại (Sáo trời)

1

Xuất xứ từ sách Trang Tử, thiên Tề vật luận. Thiên lại (Sáo trời) là những âm hưởng của tự nhiên như tiếng gió thổi vào hang động, tiếng

reo của cây…

Bán dạ chúc hương

Trần Thái Tơng

8

Hồ điệp mộng (Giấc mộng hồ điệp)

3

Điển này xuất xứ từ sách Trang Tử, thiên Tề vật luận, Trang Tử nói mình nằm mơ thấy hoá ra một con bướm bay nhởn nhơ, nhưng khi tỉnh dậy trong lòng sinh ra phân vân, không hiểu Trang Chu nằm mơ hoá ra bướm hay con bướm hoá ra Trang Chu. Câu chuyện ngụ ý nói sự hư ảo của thế gian. Sau người đời thường dùng

giấc bướm để chỉ giấc mộng.

Khải bạch, Thử thời vô thường kệ Khải bạch.

Trần Thái Tơng

9

Nhất khúc vô sinh (Khúc hát vô sinh)

1

Sách Trang Tử, thiên Chí nhạc ghi “Sát kỳ thuỷ nhi bản vô sinh, phi đồ vô sinh dã nhi bản vô hình” (Xét khởi đầu thì gốc là vô sinh, chẳng phải chỉ là vô sinh thôi mà vốn vô hình). Phật giáo cũng dùng vô sinh khúc để chỉ con đường

giác ngộ, chân lý vốn không sinh không diệt.

Điệu Tiên sư

Tuệ

Trung

10

Tiêu Dao

thang

1

Tiêu Dao là một thuật ngữ bắt nguồn từ Tiêu

dao du của Trang Tử, chỉ con người vươn mình

Phóng cuồng

Tuệ

Trung



(Thang Tiêu Dao)


ra giữa vũ trụ, rong chơi nhàn hạ, mọi quan niệm về thời gian và không gian đều trở nên tương đối. Cũng như trên, Tuệ Trung đã dùng khái niệm “tiêu dao” với thủ pháp vật hoá, như

một thứ nước giúp con người giải thoát trần tục.

ngâm


Xem tất cả 399 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí