Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 42


ĐIỂN CỐ TỪ CÁC NGUỒN TƯ LIỆU KHÁC


SOÁ

TT

TÊN ĐIỂN

COÁ

SOÁ

LẦN

NGUOÀN GOÁC

TÁC

PHẨM

TÁC

GIẢ

1

OÁc long

1

Xuất xứ trong một bài thơ nhớ Lý Bạch, Đỗ Phủ

Tiễn

Trần


lạc nguyệt (Ánh trăng lọt qua rường


viết “Lạc nguyệt mãn ốc lương, Do nghi chiếu nhan sắc” (Trăng sáng nay rường nhà, Những tưởng rọi sáng dung nhan). Thái Tông mượn ý

đó để biểu thị tình cảm mến khách của mình.).

sứ Bắc Trương Hiển Khanh

Thái Tông


nhà)





2

Báo văn

1

Ý nói kiến thức hạn hẹp, lông con báo nhiều

Kim

Trần


(Kiến thức


màu, mình chỉ biết được như nước Điển Khuy

cương

Thái


hẹp hòi)


báo nhất ban trong sách Tấn thư: “Quản trung

tam

Tông




khuy báo thời kiến nhất ban.” (Nhìn con báo qua

muội





cái ống, thường chỉ thấy một nét vằn).

kinh






tự


3

Khai thư

1

Vượn đàn giận ngốc: lấy ý từ điển Thư công

Kim

Trần


chúng nộ


nước Tống nuôi vượn, buổi sáng cho ăn bốn

Cương

Thái


tam (Vượn đàn giận ngốc)


phần, chiều ba phần thì chúng giận dữ, la hét, nhưng khi đổi lại sáng ba chiều bốn thì chúng lại vui mừng.

tam muội kinh

tự

Tông

4

Văn bút

1

Thơ Đỗ Phủ có câu: “Bút trận độc tảo thiên nhân

Phổ

Trần


tảo thiên


quân” (Một trận bút quét sạch đội quân ngàn

thuyết

Thái


quân chi


ngöôøi lính). Câu này ý nói người có tài văn

Tứ

Tông


trận (Bút


chương, kiến thức uyên bác. Văn chương của

sôn



văn quét


người tài này có ảnh hưởng lớn đến nhiều người.




trận nghìn






quân)





5

Khoa tròch

quả chi tư

1

Sách Tấn thư chép Phan Nhạc lúc trẻ là một

người có tài, thường ôm đàn đi trên đường Lạc

Phổ

thuyết

Trần

Thái

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.

Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 42



(Phong tư ném quả)


Dương. Những người con gái gặp chàng liền nắm tay nhau thành vòng vây rồi ném quả vào đẩy xe. Về sau người ta hay dùng điển ném quả

để chỉ người đẹp trai.

Tứ sơn

Tông

6

Khuynh quốc nghiêng thành (Khuynh nước đổ

thành)

1

Thơ Lý Diên Niên đời Hán có bài ca, trong câu “Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” (Một lần ngoảnh nhìn làm nghiêng thành người, hai lần ngoảnh nhìn làm nghiêng nước người.).

Phoå thuyết Tứ sơn

Traàn Thaùi Tông

7

Lã Vọng (Người đời Chu)

1

Người đời Chu (Trung Hoa) tám mươi tuổi mới ra giúp vua Văn Vương. Nói đến Lã Vọng là nói đến tuổi già.

Phổ thuyết Tứ

sôn

Traàn Thaùi Tông

8

Biển Thước – Lư Nhân (Thầy thuốc giỏi thời Chiến

Quoác)

1

Một thầy thuốc giỏi thời Chiến quốc tên là Tần Việt Nhân. Tương truyền ông học được phương thuốc bí truyền của Trường Tan Quân và trở nên nổi tiếng. Lư Nhân tức Biển Thước. Vì Biển Thước ở đất Lư nên người ta gọi ông là Lư Y, Lư Nhân. Về sau các tên Lư Nhân, Biển Thước

dùng để chỉ chung những thầy thuốc giỏi.

Phoå thuyết Tứ sơn

Traàn Thaùi Tông

9

Đăng đầu oa giác (Sừng sên đầu

nhặng)

1

Điển này rút ra từ sách Trang Tử. Đăng đầu: đầu con nhặng, trong một bài từ của Tô Thức có câu “Đăng đầu vi lợi”; nghĩa là điều lợi nhỏ như đầu con nhặng; oa giác: sừng con ốc sên. Ý nói

những điều lợi nhỏ mọn, con người nên gạt bỏ.

Phổ thuyết sắc thân

Traàn Thaùi Tông

10

Tô học sĩ thường thân Phật

Ấn (Tô

1

Tô Học sĩ chính là Tô Thức, một trong tám đại gia đời Đường Tống, là một nhà nho nhưng thường giao du với thiền sư Liễu Nguyên. Một

hôm Tô Thức bước xuống nhà, Liễu Nguyên

Phổ khuyến Bồ đề tâm

Traàn Thaùi Tông



Học sĩ kết thân Phật Ấn)


hỏi: “Ở đây không có chỗ ngồi”. Tô Thức đáp “Mượn cái tứ đại của ông để ngồi”. Nguyên nói “Lão tăng có một câu hỏi, trả lời được thì ngồi, không trả lời được thì thì phải để đại ngọc đây mà đi”. Câu hỏi như sau: Lão tăng vốn là tứ đại. Nhưng tứ đại vốn là không, ngũ uẩn chẳng có, thế thì ngồi ở đâu? Tô Thức nín lặng, liền sai người cởi đại ngọc để lên án rồi trao Thức chiếc

áo vá của nhà sư.

văn


11

Hàn Văn

1

Một nhà văn lớn đời Đường, cũng được đương

Phổ

Trần


Công


thời liệt vào tám đại gia đời Đường Tống. Thời

khuyến

Thái


(Nhà văn Hàn Dũ )


Đường Hiến Tông có chuyện rước xương Phật vào thờ ở các chùa trong cấm nội. Vương, công sĩ, dân đến chiêm ngưỡng bố thí rất đông đúc. Hàn Dũ lúc đó làm Thị lang bộ Hình can gián

phát Bồ đề tâm văn

Tông




rất gay gắt, ông đã viết bài Nguyên đạo để bài






xích đạo Phật. Vua giận, xử tội, Hàn Dũ, nhờ






Bùi Độ xin cho, nên chỉ bị biếm ra Triều Châu.






Ở đây không có bạn, Hàn Dũ ba lần viết thư mời






nhà sư Đại Điên nhưng Điên không đến. Sau






Hàn Dũ phải thân hành đến nhà, hỏi han bàn






bạc. Nhiều lần ông khen Đại Điên thông minh,






hiểu đạo lý.



12

Lương

1

Xuất xứ từ câu nói của Trần Thực làm chức

Giới

Trần


thượng


trưởng vùng Thái Khâu đời Hậu Hán (Trung

sát

Thái


quân tử


Hoa). Một đêm ông thấy kẻ trộm trèo vào nhà

sinh

Tông


(Chỉ cho


nhưng còn nấp trên xà. Ông liền gọi con cháu

văn



kẻ trộm)


đến, nghiêm sắc mặt răn bảo rằng: Người ta






không thể không cố gắng. Những người không






tốt chưa hẳn bản chất vốn ác, chỉ vì làm nhiều







lần quen đi mà thành tính nên đến nỗi như vậy.

Bậc quân tử ngồi trên xà nhà kia là người như vậy. Kẻ trộm nghe thấy sợ hãi vội xuống tạ lỗi.



13

Sở yêu

Vệ mấn

(Chỉ cho người con gái đẹp nước Sở)

1

Dịch ý chữ Sở yêu, Vệ mấn. Sở yêu: lưng người con gái nước Sở. Ngày xưa vua nước Sở thích lưng thon, vì thế triều thần và các cung nữ đều nhịn ăn cho lưng thon nhỏ. Sách Hàn Phi Tử thiên Nhị Bính có chép: Sở Linh Vương thích lưng thon nên nước Sở nhiều người chết đói. Vệ mấn: tóc người con gái nước Vệ. Thời Xuân thu Chiến quốc, nước Vệ có nhiều con gái đẹp. Do đó sau này người ta thường dùng hai chữ Sở yêu,

Vệ mấn để chỉ người con gái đẹp.

Giới sắc văn

Trần Thái Tông

14

Yến sắc Triệu nhan (Mặt hoa da phấn)

1

Dịch ý chữ Yến sắc, Triệu nhan. Triệu Phi Yến, từ nhỏ đã giỏi ca múa. Hán Thành Đế đi vi hành gặp nàng, ưa thích đem về cung. Từ đấy nàng rất được sủng ái, được lập làm hoàng hậu. Hơn mười năm sau Thành Đế chết, Bình Đế phế làm thứ nhân. Văn học phương Đông vẫn dùng Triệu

Phi Yến tượng trưng cho phái đẹp.

Giới sắc văn

Trần Thái Tông

15

Tô Đài

(Núi Cô Tô)

1

Đài Cô Tô trên núi Cô Tô, nơi đây Ngô Phù Sai vì say đắm Tây Thi mà bị Việt Vương Câu Tiễn

diệt.

Giới sắc văn

Trần Thái

Tông

16

Chân Quân (Hứa Chân Quân)

1

Có lẽ là Hứa Chân Quân. Ông tên là Tốn, tự là Kính Chi, học tiên với Ngô Mãnh, đỗ hiếu liêm, được trao chức Tinh dương lệnh ở đất Thục. Vào đời Tấn Vũ Đế ông bỏ quan về Tây Sơn, Hồng Châu. Về sau, theo truyền thuyết, cả nhà được lên Trời. Người đương thời cũng gọi ông là Hứa

Tinh Dương.

Giới sắc văn

Trần Thái Tông


17

Đại Vũ (Vua đầu nhà Hạ)

1

Vua đầu nhà Hạ, được Thuấn nhường ngôi. Theo truyền thuyết Trung Hoa, ông là người có công trị thuỷ thời cổ đại, cũng là một ông vua được coi là hình ảnh mẫu mực của chế độ phong kiến

phương Đông.

Giới tửu văn

Trần Thái Tông

18

Thái

1

Vua thứ ba nhà Hạ (2188 – 2159 trước CN),

Giới

Trần


Khang


cháu vua Vũ. Thái Khang ham mê rượu chè săn

tửu

Thái


(Vua thứ


bắn, về sau bị vua nước Hữu cùng cướp ngôi.

văn

Tông


ba nhà


Khi Thái Khang mất nước anh em ông có làm




Hạ)


bài Ngũ tử chi ca oán ông. Đoàn Ngọc Tài thì






cho rằng Ngũ tử không phải là năm người mà là






người em thứ năm của Thái Khang.



19

Thái A

1

Một loại gươm quý. Huyền thoại kể về thanh

Niêm

Trần


kiếm


gươm này như sau: Lôi Hoán làm chức lệnh ở

tụng

Thái


(Kiếm


Thành Phong Huyện Dự Chương, thường thấy

kệ

Tông


báu)


luồng khí màu tía ở khoảng giữa sao ngưu sao






đẩu. Ông cho đó là khí của thanh kiếm quý bốc






lên. Sau ông đào nền nhà ngục, quả được một






chiếc hộp đựng hai thanh kiếm, một thanh khắc






tên Long tuyền một thanh khắc tên Thái A. Sau






Thái A thường để chỉ loại kiếm quý.



20

Long chúc (Đuốc rồng)

1

Ở đây chỉ mặt trời. Chữ này đã thấy dùng trong bài Phù Dung phú của Tào Thực: “Hỗn hỗn hoa hoa, lạn nhược long chúc.(Xen lẫn, rực rỡ, xán

lạn như đuốc rồng.).

Sơ nhật chúc hương

Trần Thái Tông

21

Long ngâm

1

Tên một khúc đàn hay thời cổ Trung Hoa. Theo

Sám

Trần


khúc (Khúc long ngâm)


Trịnh Thuật Tổ truyện trong Bắc Tề thư thì Tổ Thuật giỏi đàn, tự chế ra mười bài long ngâm (long ngâm thập lộng).

hối nhĩ căn

tội

Thái Tông

22

Tử quy đề

2

Tử quy tức chim cuốc, còn có tên là đỗ vũ, đỗ

Khải

Trần



thiết (Tử

quy da diết)


quyên. Tương truyền đây là vua nước Thục; bị mất nước, hồn hoá làm chim, vì nhớ nước nên suốt mùa hè cứ kêu quốc quốc. Điển này nói về tấm lòng yêu nước thương dân của vua nước Thục.

bạch Thử thời vô thường

kệ

Thái Tông

23

Hoè trung

1

Cũng gọi là giấc mộng Nam Kha, xuất xứ từ

Thử

Trần


nghò


Nam Kha ký của Lý Công Tá đời Đường. Bài ký

thời

Thái


(Kiến


kể truyện Thuần Vu Phần ngủ trưa dưới gốc cây

Tông


cánh hoè)


hoè, bỗng nằm mơ thấy mình đến nước Đại Hoè

An làm Thái thú quận Nam Kha 20 năm, được

thường

kệ





vua nước Đại Hoè gả Công chúa cho và sinh






được năm con trai, hai con gái, cực kỳ vinh hiển.






Sau phần đánh giặc bị thua, Công chúa chết, vua






nước Đại Hoè đuổi về quê, Phần chợt tỉnh dậy






thấy mình nằm dưới gốc cây hoè, trên cành hoè






phía Nam, có một tổ kiến. Đại ý câu chuyện nói






cuộc đời chỉ là giấc mộng hư ảo và ngắn ngủi.



24

Phượng

1

Ở phía Nam huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô

Khải

Trần


Hoàng đài


Trung Hoa. Lý Bạch có bài thơ Phượng Hoàng

bạch

Thái


(Đài


đài, trong đó có hai câu: “Phượng Hoàng đài


Tông


Phượng


thượng phượng hoàng du, Phượng khứ đài không




Hoàng)


gian tự lưu” (Trên đài Phượng Hoàng chim






Phượng Hoàng nhởn nhơ. Phượng Hoàng bay đi,






đài bỏ trống, dòng sông cứ trôi.) Đỗ Phủ cũng có






thơ về Phượng Hoàng đài nhưng địa điểm này ở






huyện Đồng Cốc thuộc tỉnh Cam Túc.



25

Kim ô

(quạ vàng)

1

Dịch chữ “kim ô”. Truyền thuyết xưa cho rằng

trong mặt trời có con quạ ba chân. Thơ của Hàn Dũ có câu “Kim ơ hải để sơ phi lai” (Con quạ

Thử thời vô

Trần

Thái Tông





vàng từ đáy bể mới bay đến.).

thường

kệ


26

Tước đầu hương (Hương quý của

nước Ngô)

1

Tức tước đầu hương, một loại hương quý của nước Ngô. Trong Tam quốc chí, phần Ngô chúa Quyền truyện chú có ghi: Nguỵ Văn Đế sai sứ đến xin tước đầu hương.

Hậu dạ chúc hương

Trần Thái Tông

27

Ngư thướng trúc can (Cá nhảy lên ngọn

trúc)

1

Theo Nhĩ Nhã Dực, cá măng trước khi vươn mình nhảy lên cành trúc thì miệng ngậm vào lá trúc để lấy đà mà quăng mình lên cao. Mai Thánh Du phụng chiếu tu chỉnh Đường thư; phu nhân của ông nói: “Tôi xem bước đường là ngọn

trúc rồi lại rơi xuống nước mà thôi.”.

Chí đạo vô nan

Tuệ Trung

28

Tiêu đầu lạn ngạch (Cháy đầu bỏng trán)

1

Theo Hoắc Quang truyện trong Hán thư thì có một người khách đến thăm một vị chủ nhân, thấy bếp ông ta làm ống khói thẳng, bên cạnh lại để củi khô. Người khách bèn nhắc chủ nhân sửa ống khói cong lại, và dời củi đi nơi khác, nếu không sẽ bị hoả hoạn. Chủ nhân không nghe. Chẳng bao lâu nhà bị cháy, hàng xóm đến cứu, may mà dập tắt được. Chủ nhân bèn giết trâu, đặt mời bà con hàng xóm, ai “cháy đầu bỏng trán” thì được ngồi trên, riêng người đã nhắc mình nên làm ống khói cong và dời củi đi

nơi khác thì không được đả động tới.

Chiếu thân

Tuệ Trung

29

Phù Vân (Mây nổi)

1

Nguyên văn là “y cẩu phù vân”, bắt nguồn từ câu thơ Đỗ Phủ: “Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu tư biến huyễn vi thương cẩu” (Mây nổi trên trời như áo trắng, phút chốc biến ảo thành chó

xanh). Ý nói cuộc đời đổi thay như chớp mắt.

Thế thái hư huyễn

Tuệ Trung

30

Vương,Tạ

1

Hai nhà quý tộc đời Tấn, phong lưu phú quý

Thế

Tuệ





không ai sánh kịp. Sau con cháu rơi vào nghèo

thái

Trung

khổ. Thơ Đường được sử dụng câu chuyện này


thành một điển cố: “Cựu thời Vương, Tạ đường

huyễn


tiền yến, Phi nhập tầm thường bách tinh gia”



(Đàn chim én trước lầu họ Vương, họ Tạ thời



trước, nay bay vào đậu ở nhà trăm họ tầm



thường.)



31

Liên xã

tán my

(Liên xã chu mày)

1

Theo Lư Sơn ký của Chu Tục Chi thì sư Viễn sai Uyên Minh đi vào Liên Xã, ông chau mày mà đi. Ý nói con người phải tuân theo số phận của

mình.

Trừu trần ngâm

Tuệ Trung

32

Hồng lô

1

Sử ký chép khi Bình Nguyên Quân đời Chiến

Trừu

Tuệ


bất chú hề


quốc đi sang nước Sở, một thực khách là Mao

trần

Trung


nang chuỳ


Toại xin đi theo. Bình bèn bảo rằng “Người hiền

ngâm



(Chiếc lò


sĩ trong đời cũng như chiếc dùi ở trong túi, mũi




lớn không


nó tất phải thò ra ngoài”. Ý muốn nói người có




đúc mũi


thực tài thì cái tài trước sau thế nào cũng phát lộ




dùi trong


ra, dầu chưa đắc dụng.




túi)





33

Ñan đính

hạc (Hạc đầu đỏ)

1

Theo Thanh Dị lục của Đào Cốc thì Vũ Tống khi làm Dĩnh Vương, trong vườn ngự của ông nuôi những loài chim muông, mỗi loài ông đặt cho một tên. Ngan trắng là “huyền sắc tiên sinh” gà là “trường minh đô uý”, rùa là “linh thọ tử”, hạc là “cửu sao xử sĩ”. Qua đây, có lẽ tác giả đã

mượn hình tượng hạc đầu đỏ để chỉ những xử sĩ.

Trữ từ cảnh văn

Tuệ Trung

34

Khoả

2

Một nước trong truyền thuyết cổ đại Trung Hoa

Vạn

Tuệ


Quoác


mà mọi người đều trần truồng. Theo Triệu sách,

bất

Trung


(Nước cởi


Chiến Quốc sách thì vua Vũ, xưa kia khi vào

năng



trần)


nước này cũng phải ở trần như mọi người khác.

dung


..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/02/2023