phấn đấu sau năm 2010, Du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành Du lịch phát triển trong khu vực.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
2.2.1 Tăng cường thu hút khách du lịch
Phấn đấu năm 2010 đón 5,5-6 triệu lượt khách quốc tế, tăng 3 lần so với năm 2000, nhịp độ tăng trưởng bình quân 11,4%/năm và 25 triệu lượt khách nội địa, tăng hơn 2 lần so với năm 2000, dự tính đưa thị phần du lịch của Việt Nam trong khi vực Đông Nam á lên 12,8%. Mục tiêu hướng tới là năm 2020 Việt Nam có thể đón 12,8 triệu khách du lịch quốc tế, 37 triệu khách nội địa.1
2.2.2 Nâng cao nguồn thu nhập từ du lịch
Dự tính thu nhập xã hội từ du lịch năm 2010 đạt 16,300 triệu USD, đưa tỷ trọng (GDP) du lịch lên 12% trong tổng GDP cả nước và giải quyết
560.000 lao động phục vụ trong ngành du lịch.
2.2.3 Xây dựng mới, trang bị lại cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, tới năm 2010 Việt Nam sẽ xây hình thành một số khu du lịch quốc gia nổi trội, có thương hiệu, có tính cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Chi Tiêu Của Khách Du Lịch Quốc Tế Tại Việt Nam Từ 1995 – 2010
- Du lịch Việt Nam: Cơ hội, thách thức và các biện pháp thúc đẩy tới phát triển bền vững - 8
- Quan Điểm Và Mục Tiêu Phát Triển Du Lịch Ở Việt Nam
- Du lịch Việt Nam: Cơ hội, thách thức và các biện pháp thúc đẩy tới phát triển bền vững - 11
- Du lịch Việt Nam: Cơ hội, thách thức và các biện pháp thúc đẩy tới phát triển bền vững - 12
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) cho dự án thuộc các địa phương có khu du lịch quốc gia, tập trung vào bốn khu du lịch tổng hợp: Hạ Long, Cát Bà ; Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng; Nha Trang của Khánh Hòa; khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng núi Đan Kia- Suối Vàng của Lâm Đồng và 17 khu du lịch chuyên đề của 14 tỉnh, thành phố khác, trong đó có cả khu du lịch biển đảo Phú Quốc của Kiên Giang.
1 Thủ tướng chính phủ, ngày 22 tháng 07 năm 2002, Phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam năm 2001- 2010.
Nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược, ngành du lịch cần huy động từ nhiều nguồn lực khác nhau với mức vốn khoảng 5,5 tỷ USD cho giai đoạn 2006- 2010, trong đó, đầu tư cho CSHT du lịch 1,5 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư CSHT du lịch sẽ huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách Nhà nước hỗ trợ chiếm 20 - 30% tổng nhu cầu đầu tư CSHT du lịch, khoảng 5.000 đến 7.200 tỷ đồng. Thực tế nguồn vốn hỗ trợ đầu tư này chưa thấm vào đâu vì vậy các địa phương phải tự cân đối bổ sung nguồn vốn để hoàn thành dự án. Nguồn vốn ODA chiếm 5- 10% tổng nhu cầu đầu tư CSH.T du lịch, khoảng 1.200 -
2.400 tỷ đồng nhằm đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm phát triển du lịch. Các nguồn vốn khác chiếm 60 - 70% tổng nhu cầu đầu tư, khoảng 14.400-
18.000 tỷ đồng, huy động từ các địa phương thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. 1
2.2.4 Tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh công tác xúc tiến, tuyên truyền quảng bá, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch
Việt Nam đề ra mục tiêu mở rộng diện ký và thực hiện tốt hiệp định hợp tác du lịch song phương và tham gia có hiệu quả vào các tổ chức du lịch khu vực và quốc tế, xây dựng tiềm lực nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng như mạng lưới các cơ sở đào tạo du lịch. Đến năm 2010 đào tạo thêm 1,4 triệu lao động, trong đó lao động nghiệp vụ lễ tân, hướng dẫn viên, nhân viên phục vụ khách sạn chiếm trên 308.000 người.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY DU LỊCH VIỆT NAM HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1. Những giải pháp mang tính vĩ mô
Sự phát triển của ngành Du lịch phụ thuộc chặt chẽ vào hiệu quả của việc quản lý vĩ mô của Nhà nước mà trực tiếp là Tổng cục Du lịch Việt Nam. Tổng cục Du lịch đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện những chính
1 Cẩm Tú, năm 2008, Để du lịch Việt Nam phát triển bền vững, Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần
sách, biện pháp mang tính vĩ mô để phát triển ngành Du lịch. Những giải pháp được đưa ra ở đây là nhằm định hướng cho hoạt động quản lý vĩ mô, từ đó đề ra những nhiệm vụ cụ thể.
1.1 Kiện toàn và đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý
Để có thể thực hiện thành công chiến lược phát triển du lịch với những mục tiêu cụ thể đã đề ra, ngành du lịch cần kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý sao cho ngang tầm nhiệm vụ của một ngành kinh tế mũi nhọn cũng như phù hợp với yêu cầu của sự phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về du lịch cần theo hướng: Phối hợp với các ngành và địa phương liên quan, xúc tiến thành lập Cục Xúc tiến du lịch và thành lập thêm các Sở Du lịch ở những địa bàn trọng điểm nhiều tiềm năng du lịch và hoạt động du lịch sôi động; sắp xếp lại các doanh nghiệp du lịch nhà nước, hình thành các công ty hoặc tổng công ty mạnh, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong hoạt động kinh doanh du lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch để có thể huy động ngày càng tăng các nguồn lực của xã hội vào phát triển du lịch. Đồng thời gắn mô hình đổi mới tổ chức quản lý với yêu cầu đảm bảo tính hiệu quả, đồng bộ. Việc Tổng cục du lịch sáp nhập với bộ văn hoá thông tin là một tín hiệu rất đáng mừng, thể hiện tầm vĩ mô tổ chức chung - Du lịch đi liền với văn hoá.
Bên cạnh đó phải đẩy mạnh hơn, thực hiện đồng bộ và hiệu quả hơn mối quan hệ liên ngành, liên vùng trong du lịch: không ngừng thắt chặt và củng cố sự hợp tác vốn có và cần có giữa ngành du lịch với ngành hàng không, ngoại giao, công an, quốc phòng, văn hoá, giao thông, hải quan… Có thể nói nâng cao tính liên kết - là một điều kiện tất yếu để đẩy mạnh phát triển bền vững của ngành du lịch trong giai đoạn hội nhập, bao gồm tính liên ngành, liên vùng, liên quốc gia. Sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp du lịch, liên kết giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý ngành cũng sẽ tạo nên một môi trường, cơ chế kinh doanh thuận lợi, công bằng. Tổng cục
Du lịch cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương liên quan để tháo gỡ thủ tục, giải quyết vướng mắc trong hoạt động du lịch. Mặt khác, các Sở Du lịch, Sở Thương mại - Du lịch cần chủ động báo cáo cấp uỷ và chính quyền địa phương, có kế hoạch phối kết hợp với các ban, ngành trên địa bàn để tổ chức triển khai tốt hơn các hoạt động du lịch; tăng cường công tác thông tin nhiều chiều giữa Tổng cục Du lịch với các sở và doanh nghiệp. Phải có quy hoạch tổng thể chỗ nào do trung ương quản lý, chỗ nào do tỉnh và địa phương quản lý.
Tóm lại bài toán du lịch cũng giống như bài toán kinh tế, bài toán giao thông, phải ở mức quản lý vĩ mô mới giải được. Người quản lý phải có tầm hiểu biết, có kinh nghiệm và đặc biệt phải có khả năng liên kết các ban ngành với nhau, coi tài sản quốc gia không phải chỉ của riêng chúng ta, của riêng thế hệ này mà là của con cháu đời sau thì mới có thể vạch ra được đường lối chiến lược phát triển bền vững.
1.2 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành du lịch, tạo môi trường pháp lý cho việc quản lý hoạt động du lịch, thu hút mọi nguồn lực phát triển du lịch; đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục liên quan đến hoạt động du lịch. Các chính sách và nội dung phát triển du lịch phải thật thuận lợi thể hiện ở việc các cấp, các ngành, các địa phương khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực, trách nhiệm cho phát triển du lịch thông qua trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Cụ thể là:
Chính sách tài chính: Kiến nghị với Chính phủ có những chính sách tài chính phù hợp nhằm khuyến khích du lịch phát triển với tốc độ cao hơn cả về chất và lượng. Nhà nước cần giảm tiền thuê đất, giảm các chi phí đầu vào như điện, nước… để giảm giá thành sản phẩm du lịch, giúp các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có điều kiện đầu tư, đa dạng hoá sản phẩm du lịch. Tổng cục Du lịch cần kết hợp với Bộ Tài chính để quản lý giá cả trong khách sạn gắn với thứ
hạng của các khách sạn để tránh tình trạng các khách sạn tuỳ ý đặt giá không thống nhất như hiện nay, tốt nhất là cần thực hiện chính sách một giá một cách triệt để nhằm thu hút khách nước ngoài. Cần cho phép các doanh nghiệp du lịch được vay tín dụng ưu đãi để đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở lưu trú, phương tiện vận chuyển khách du lịch. Mặt khác, du lịch là hoạt động xuất khẩu tại chỗ, do đó các sản phẩm du lịch quốc tế có thể thu ngoại tệ (với các mặt hàng tiêu dùng, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ mà khách du lịch mua sắm tại Việt Nam) cần được hưởng cơ chế, chính sách ưu đãi, miễn thuế xuất khẩu như hàng hoá xuất khẩu. Đồng thời các trang thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các hoạt động thu ngoại tệ của ngành du lịch phải được xem như là tư liệu sản xuất hàng xuất khẩu, do đó cần được miễn giảm thuế.
Chính sách đầu tư: Nhà nước xây dựng chính sách đầu tư hợp lý phát triển kết cấu hạ tầng du lịch (bao gồm cả hệ thống giao thông) tại các vùng du lịch trọng điểm, các điểm du lịch tiềm năng ở các vùng xa xôi trên cơ sở qui hoạch tổng thể. áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước đối với các lĩnh vực, ngành nghề, dự án trọng điểm đầu tư du lịch. Nhà nước và các địa phương phải xác định tỷ lệ ưu tiên vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng du lịch so với các ngành nghề khác (những ngành nghề không được xác định là mũi nhọn, không thuộc nhóm ngành nghề có khả năng cạnh tranh). Mặt khác, khối lượng đầu tư phải lớn và lâu dài; huy động mọi nguồn vốn, chú trọng nguồn vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở xem xét các thế mạnh và tốc độ phát triển của từng vùng, từng lĩnh vực, Nhà nước cần tạo cơ chế thông thoáng hơn về đầu tư cho sự phát triển du lịch ở từng địa phương nhằm khuyến khích việc huy động các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác nhau. Với chiến lược xã hội hoá du lịch, những địa phương có tiềm năng lớn về du lịch sẽ thực sự trở thành các trung tâm du lịch đặc thù và người dân ở đó sẽ sống chủ yếu vào nguồn thu từ du lịch.
Chính sách xuất nhập cảnh, hải quan: Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh đối với người và hành lý của khách du lịch phù hợp khả năng quản lý của nước ta và thông lệ quốc tế; cải tiến quy trình, tăng cường trang thiết bị hiện đại tại các cửa khẩu quốc tế trong việc kiểm tra người và hành lý; sửa đổi, bổ sung các quy định về đồ cổ, đồ thủ công mỹ nghệ dân gian; mở thêm các dịch vụ thuận tiện cho khách du lịch (ngân hàng, đổi tiền, thu trực tiếp ngoại tệ, cửa hàng miễn thuế, quầy thông tin du lịch); Nghiên cứu và xúc tiến miễn thị thực xuất nhập cảnh đối với các nước còn lại trong khu vực ASEAN và miễn visa đơn phương cho một số nước có nhiều khách vào Việt Nam du lịch.
Xây dựng những chính sách, tiêu chuẩn đánh giá cụ thể phục vụ cho việc quản lý chất lượng sản phẩm du lịch trên thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng và uy tín của ngành, tạo cho du lịch những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển toàn diện, nhanh và bền vững.
1.3 Tăng cường xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch
Kinh nghiệm phát triển du lịch của các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, Hàn Quốc... đều chỉ ra rằng, công tác tuyên truyền quảng bá, xây dựng thương hiệu là hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển du lịch. Hiện nay, hoạt động quảng cáo ở nước ta nói chung và đối với ngành Du lịch nói riêng còn kém phát triển và lạc hậu so với khu vực và thế giới. Ngân sách dành cho hoạt động marketing, quảng cáo nhằm xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam còn quá eo hẹp.Du lịch Việt nam cần có một “chiến dịch truyền thông mạnh mẽ” có tính chất đột phá trong việc quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam. Trong thời gian tới cần tập trung vào:
Xây dựng sản phẩm du lịch đặc sắc và đa dạng: Phát huy lợi thế về tiềm năng du lịch, cần xây dựng sản phẩm du lịch đặc sắc cho Việt Nam, kết hợp với dịch vụ du lịch hiện đại; kết hợp nhiều loại hình du lịch trong một sản phẩm, khuyến khích các loại hình du lịch mới như du lịch sinh thái. Để sản
phẩm du lịch thêm phần đa dạng, ngành du lịch tập trung hơn nữa vào nghiên cứu và xây dựng mới các chương trình du lịch hấp dẫn, độc đáo có khả năng thu hút nhanh số lượng khách quốc tế. Việc quan tâm đến các phân đoạn thị trường khác nhau để thoả mãn tối đa nhu cầu du lịch của mọi đối tượng khách là rất cần thiết. Thị trường quan trọng trước hết phải là thị trường khu vực bao gồm cả Đông Bắc Á với những thị trường khách du lịch trọng điểm truyền thống của Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc. Thị trường Bắc Mỹ (mà trước hết là thị trường Mỹ) và thị trường châu Âu cũng là những thị trường lớn. Nếu tăng cường quảng bá tốt, tiếp thị tích cực thì số khách sẽ tăng nhanh.
Xây dựng văn minh du lịch Việt Nam: Cần giữ gìn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong các loại hình du lịch đặc thù. Những điều này đòi hỏi sự tuyên truyền giáo dục của chính quyền, của các phương tiện thông tin đại chúng và các phương thức xã hội hoá du lịch; gắn lợi ích của du lịch với mỗi người dân để đảm bảo tính văn minh bền vững.
Trong tình hình thế giới có nhiều biến động, Việt Nam đang được đánh giá là một trong những điểm du lịch an toàn và đầy hấp dẫn nhất khu vực và thế giới. Khẩu hiệu “Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới” đã tỏ rõ sự hấp dẫn du khách. Hơn bao giờ hết Việt Nam cần tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá về Du lịch Việt Nam nhằm thu hút ngày một nhiều khách du lịch đến tham quan và tìm hiểu về đất nước và con người Việt Nam. Cần phải có kế hoạch tiếp thị dài hạn và xúc tiến quảng bá phù hợp ở cả trong và ngoài nước, cần tập trung tuyên truyền tạo chuyển biến nhận thức mạnh hơn, sâu hơn trong các ngành, các cấp và trong cộng đồng về vị trí, vai trò, chủ trương, biện pháp phát triển du lịch.
Ngành du lịch cũng phải tăng cường phối hợp đảm bảo việc đón tiếp các đoàn khách quốc tế vào làm việc, tạo điều kiện cho báo chí, truyền hình, các đoàn khảo sát của các hãng lữ hành nước ngoài vào Việt Nam viết bài,
làm phim về du lịch, góp phần đẩy mạnh xúc tiến, giới thiệu du lịch Việt Nam tới thị trường nguồn khách.
1.4 Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực Ngành Du lịch
Phát triển nguồn nhân lực du lịch đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển chung của ngành du lịch. Việt Nam cần xây dựng và có những kế hoạch triển khai cụ thể một chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển của ngành trong hiện tại và tương lai về cơ cấu, số lượng và chất lượng của đội ngũ lao động du lịch.
Trên cơ sở tổng điều tra nguồn nhân lực hiện có và dự báo nhu cầu cũng như khả năng phát triển nguồn nhân lực du lịch đến năm 2020, ngành du lịch cần có kế hoạch triển khai cụ thể chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng các yêu cầu mà ngành đang đặt ra. Công tác đào tạo cần phù hợp và sát với nhu cầu nhân lực của ngành, tránh sự đào tạo mất cân đối gây lãng phí và không hiệu quả. Hơn nữa phải xác định rõ phạm vi và lĩnh vực đào tạo vì đây là yếu tố quyết định để đầu tư vào đào tạo. Ngành du lịch nên phối hợp với Bộ giáo dục - Đào tạo tăng cường chất lượng đào tạo của các Khoa, Bộ môn đào tạo về du lịch ở các trường đại học. Cần sớm có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo du lịch, nhanh chóng khắc phục tình trạng hiện nay đội ngũ này vừa ít, vừa hạn chế về năng lực. Vì vậy, việc tổ chức đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ này là rất cần thiết. Hình thức đào tạo cần được đa dạng hoá như bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo dài hạn, kết hợp thực tập tu nghiệp và mời chuyên
gia nước ngoài.
Nhà nước cần xác định các cơ sở đào tạo du lịch đầu ngành, trọng điểm để tập trung đào tạo cơ bản và lâu dài. Việc đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo du lịch đòi hỏi phải có hạng mục riêng. Đồng thời chú trọng đến việc đào tạo và bồi dưỡng nghề du lịch thông qua việc mở rộng thêm trường dạy nghề du lịch ở miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông