Du lịch Việt Nam: Cơ hội, thách thức và các biện pháp thúc đẩy tới phát triển bền vững - 11

Cửu Long để tăng cường mạng lưới đào tạo cân đối cả nước. Các cơ sở đào tạo trong cả nước cần thống nhất chương trình, nội dung đào tạo du lịch cho các cấp học khác nhau dưới sự chỉ đạo, định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tổng cục Du lịch . Hệ thống đào tạo du lịch cần được Nhà nước đầu tư một cách thích đáng để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành, chẳng hạn như xây dựng một Học viện Du lịch hay một trường Đại học Du lịch.

Tổ chức các cuộc thi tay nghề như lễ tân, nấu ăn, hướng dẫn viên du lịch… Điều này không chỉ có tác dụng quảng bá du lịch để thu hút khách mà còn là sự động viên, khuyến khích, thúc đẩy phong trào thi đua và tôn vinh những người lao động giỏi ở các doanh nghiệp du lịch.

Rõ ràng, việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nhân viên du lịch là vấn đề khẩn trương, cấp bách nhưng không thể nóng vội mà cần phải tiến hành từng bước. Trước mắt, ưu tiên việc đào tạo lại cán bộ nhân viên du lịch với nội dung và chương trình thích hợp; phương thức đào tạo cần phải triển khai mềm dẻo và linh hoạt.

1.5 Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ

Trong bối cảnh hiện nay khi mà hàm lượng khoa học và công nghệ trong mỗi sản phẩm xã hội ngày càng cao và đất nước ta cũng đang bước vào phát triển nền kinh tế tri thức, các sản phẩm nghiên cứu khoa học sẽ là cơ sở cho công tác qui hoạch phát triển ngành du lịch, hoạch định các chiến lược thị trường, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, là cơ sở cho việc đề xuất các cơ chế chính sách phù hợp và cho công tác quản lý. Việc nghiên cứu ứng dụng thành tựu mới của công nghệ thông tin đóng một vai trò quan trọng không chỉ đối với công tác quản lý mà còn đối với các hoạt động kinh doanh du lịch, tuyên truyền quảng bá du lịch.

Để thực hiện yêu cầu trên, nhà nước cần đầu tư củng cố nâng cao năng lực nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt của các cơ quan Nhà nước như Viện Nghiên cứu phát triển du lịch và Trung tâm công nghệ thông tin du lịch. Nhà

nước cũng cần khuyến khích nghiên cứu khoa học phục vụ việc giải quyết các vấn đề bức xúc của ngành; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin du lịch, thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành góp phần thúc đẩy công tác quản lý, kinh doanh và xúc tiến quảng bá du lịch. Khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh cũng như áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế. Việc sử dụng và phát huy tiềm năng chất xám, tri thức của người Việt Nam phục vụ cho phát triển du lịch cũng cần được chú trọng. Ngoài ra còn cần mở rộng giao lưu và hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học ở trong và ngoài nước để tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng cho du lịch Việt Nam.

1.6 Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường tự nhiên, xã hội

Trong xu thế chung của sự “bùng nổ” hoạt động du lịch trên thế giới, du lịch Việt Nam đã có sự tăng trưởng, phát triển và đạt được những kết quả hết sức khả quan, trong thành công ấy có vai trò to lớn của việc tổ chức, khai thác các nguồn tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, như đã phân tích ở chương 2, quá trình tổ chức, quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên này trong những năm qua còn một số bất cập, chưa thống nhất và chưa có sự đồng bộ. Tình trạng này xảy ra không chỉ ở việc khai thác nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên mà cả ở tài nguyên du lịch văn hoá.

Theo quan điểm của Tổ chức du lịch thế giới WTO, một sản phẩm du lịch tổng hợp muốn đạt được chất lượng cao, thu hút được nhiều khách du lịch phải đạt được ba tiêu chuẩn: cảnh quan du lịch hấp dẫn, giá cả phải chăng, việc ra vào tiếp xúc dễ dàng. Trên cơ sở đó, việc chuyển hoá tiềm năng to lớn của du lịch nước ta thành sản phẩm du lịch đa dạng và phong phú, đòi hỏi việc tổ chức quản lý và khai thác phải thực sự khoa học, đồng bộ và thống nhất. Để đạt được điều đó, nhà nước cần có biện pháp giáo dục và nâng cao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

nhận thức toàn dân về khai thác nguồn tài nguyên phục vụ cho du lịch bằng cách lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi trường du lịch trong chương trình giảng dạy của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch, cũng như giáo dục nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch cho khách du lịch, cộng đồng dân cư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Nguồn tài nguyên của nước ta (bao gồm cả tài nguyên tự nhiên và văn hoá) khi đã trở thành tài nguyên du lịch thì phải do ngành du lịch chủ động nắm bắt, khai thác phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước. Nhà nước cần xây dựng một hệ thống quản lý tài nguyên và môi trường du lịch, thường xuyên theo dõi biến động để có những giải pháp kịp thời, phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng với các ngành kinh tế khác, với các địa phương sở tại để khắc phục sự cố, tình trạng xuống cấp về tài nguyên và môi trường du lịch cũng như phòng chống tệ nạn xã hội thâm nhập vào hoạt động du lịch; huy động sự tham gia và sự đóng góp của cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, hiệp hội du lịch, khách du lịch và các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, tiến tới cải thiện một cách căn bản chất lượng vệ sinh, môi trường, trật tự, trị an tại các điểm du lịch có đông khách du lịch quốc tế để tạo ấn tượng tốt về các điểm du lịch Việt Nam. Ngành du lịch cũng nên chú ý đến việc hướng dẫn các điểm du lịch nội địa, chú trọng bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự, vệ sinh ngay từ lúc mới khai thác để đảm bảo phát triển du lịch bền vững.

Du lịch Việt Nam: Cơ hội, thách thức và các biện pháp thúc đẩy tới phát triển bền vững - 11

1.7 Chủ động hợp tác quốc tế tranh thủ nguồn lực bên ngoài

Đồng thời với các giải pháp phát huy nội lực, cần coi trọng mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, tạo lập hình ảnh và vị thế của Du lịch Việt Nam ở khu vực và thế giới. Đa dạng hóa, đa phương hóa hợp tác du lịch với các nước, các cá nhân và các tổ chức quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tăng nguồn khách, vốn đầu tư và kinh nghiệm cho sự phát triển du lịch Việt

Nam. Chủ động tham gia hợp tác đa phương trong khu vực và quốc tế trong các tổ chức và diễn đàn quốc tế như WTO, PATA, ASEAN, ASEANTA, APEC, EU..., khai thác tốt quyền lợi hội viên, tranh thủ kinh nghiệm, vốn và nguồn khách góp phần đưa du lịch Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp trình độ và hội nhập với sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Thực hiện và khai thác hiệu quả các hiệp định đã ký; duy trì, củng cố và phát huy các quan hệ song phương, tiến tới ký tiếp một số hiệp định mới. Cần phối hợp với các vụ chức năng nghiên cứu khả năng tìm nguồn để thành lập quỹ “Hội nhập quốc tế trong du lịch”, nhằm phục vụ tham gia các hội nghị, diễn đàn, các sự kiện quốc tế, mời chuyên gia của các tổ chức trong và ngoài khu vực như Tổ chức thương mại thế giới, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á, Tổ chức du lịch thế giới…

Triển khai đồng bộ các giải pháp trên, hội nhập và hợp tác quốc tế trong du lịch sẽ có kết quả thiết thực, góp phần nâng cao vị thế của du lịch Việt Nam trên trường quốc tế, chủ động gắn du lịch Việt Nam với du lịch khu vực, thế giới và đồng thời sẽ thu hút được ngày càng nhiều thêm nguồn lực bên ngoài, tạo cơ sở vững chắc cho việc khai thác và sử dụng nguồn nội lực một cách có hiệu quả để du lịch nước ta phát triển nhanh và bền vững, sớm thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.

2. Những giải pháp mang tính vi mô

Là lực lượng quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển du lịch, doanh nghiệp kinh doanh du lịch phải chủ động xác định thị trường và công nghệ mới, định rõ hướng đầu tư phù hợp với định hướng chiến lược quốc gia để nâng cao năng lực kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ và ứng dụng kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong kinh doanh du lịch, đồng thời phải có sự liên kết phối hợp giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch với nhau để

tăng sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

2.1 Đối với các đơn vị kinh doanh lữ hành

Để nâng cao hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trường, một công ty lữ hành có thể áp dụng các giải pháp sau

Xác định thị trường trọng điểm: Trước hết, doanh nghiệp phải xác định được chính xác thị trường trọng điểm, đảm bảo lượng khách lớn, ổn định. Sau khi xác định thị trường trọng điểm, vấn đề đầu tư cho kinh doanh như: tuyên truyền quảng cáo, xây dựng chương trình tour, chào bán các sản phẩm đặc thù, đào tạo nguồn nhân lực, sẽ được thực hiện có định hướng hơn. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi đa số các doanh nghiệp kinh doanh du lịch Việt Nam hiện nay đều rất thiếu vốn. Việc xác định thị trường trọng điểm cùng một chính sách đầu tư hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp sẽ tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước cũng như trong khu vực.

Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch

Hoàn thiện và làm phong phú các chương trình truyền thống: căn cứ vào những kiến nghị của những du khách đã tham gia, công ty lữ hành nên thường xuyên điều chỉnh lại các chương trình truyền thống dành cho khách du lịch quốc tế, có thể là sự thay đổi một số tuyến điểm du lịch, thay đổi thời gian dừng chân tại các điểm du lịch, thay đổi các khách sạn hoặc thay đổi hành trình chuyến đi... để tạo nên một chương trình du lịch có sức hấp dẫn, nâng cao hình ảnh uy tín của công ty.

Bên cạnh đó có thể phát triển chương trình sản phẩm dựa trên việc tạo điều kiện cho khách tự thiết kế tour theo ý đồ của họ. Mặc dù biện pháp này có nhược điểm là chi phí cá nhân hoá khách hàng cao, nhưng thoả mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng.

Xây dựng các chương trình du lịch mới: Đây là giải pháp đòi hỏi lượng vốn đầu tư ban đầu lớn, tuy nhiên nếu các công ty lữ hành thực sự quan

tâm, chương trình không chỉ đem lại uy tín và hình ảnh cho công ty mà còn có khả năng đem lại hiệu quả kinh doanh tương đối cao. Giải pháp này không chỉ thu hút được thị trường khách hàng tiềm năng mà còn có khả năng thu hút được thị trường khách đã tiêu dùng sản phẩm của công ty. Dựa trên xu thế đi du lịch ngày nay, các công ty lữ hành nên xây dựng các chương trình du lịch với chủ đề: du lịch sông nước, du lịch về cội nguồn, du lịch phong cảnh kết hợp với lễ hội. Điều quan trọng là phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa tiềm năng tự nhiên về phong cảnh, di tích, truyền thống văn hoá, những dấu ấn của lao động sáng tạo của con người...nhằm tạo ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc.

Nâng cao chất lượng các chương trình du lịch: Không ngừng nghiên cứu thị hiếu, nhu cầu của từng phân đoạn thị trường nhằm tạo ra chất lượng phục vụ phù hợp với sự mong đợi của đa số khách hàng. Bởi vì khách hàng là mục tiêu cơ bản của chất lượng phục vụ, trong các chương trình du lịch, khách du lịch không chỉ là người mua mà họ còn tham gia vào quá trình tạo ra chất lượng sản phẩm du lịch. Nắm bắt rõ tâm lí du khách cũng là một trong những biện pháp quan trọng trong vấn đề nâng cao chất lượng dịch vụ của chương trình du lịch.

Chất lượng phục vụ của nhân viên có tính chất quyết định đến chất lượng của các dịch vụ, bản thân các doanh nghiệp lữ hành phải chú trọng công tác quản lý, bồi dưỡng, sử dụng nhân viên: tạo phong cách phục vụ tận tình, chu đáo, an toàn, văn minh lịch sự của hướng dẫn viên và lái xe du lịch; nâng cao ý thức trách nhiệm của hướng dẫn viên trong việc đảm bảo chất lượng đi tour, giữ gìn môi trường, phát triển du lịch bền vững. Đặc biệt, các doanh nghiệp này cũng cần có chính sách sử dụng cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản, có năng lực quản lý và điều hành. Thực tế đã cho thấy rằng, những doanh nghiệp kinh doanh du lịch đã mạnh dạn tiếp nhận và có chính sách sử dụng cán bộ quản lý và quản

trị kinh doanh hợp lý thì sau vài năm công tác, nhiều cán bộ trẻ đó có thể trở thành những cán bộ tích cực, những trụ cột của doanh nghiệp.

Nguồn nhân lực trong ngành Du lịch có đặc điểm là đòi hỏi trình độ văn hóa, nghiệp vụ khá cao. Vì vậy, doanh nghiệp phải hợp tác với các trường, các khoa, các cơ sở đào tạo về du lịch để tiến hành đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên hiện có của doanh nghiệp. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên sẽ giúp doanh nghiệp có thể nâng hoạt động của mình lên một tầm mới. Đồng thời, sự hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp sẽ giúp các cơ sở đào tạo có định hướng hơn trong việc đào tạo học viên, giúp đào tạo được đội ngũ lao động mới phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Nhờ đó, doanh nghiệp cũng có thể chủ động hơn trong việc tuyển lựa những nhân viên giỏi, có năng lực thực sự.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể hợp tác với các cơ quan nhà nước về du lịch như Tổng cục Du lịch Việt Nam để có thông tin về các chương trình đào tạo, các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức lịch sử, văn hóa, địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, nghiệp vụ, ngoại ngữ cho hướng dẫn viên du lịch để có kế hoạch tham gia.

Chất lượng các chương trình du lịch trọn gói cũng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng các dịch vụ của nhà cung cấp. Nhưng các dịch vụ này nằm ngoài phạm vi tác động trực tiếp của công ty hay nói cách khác, công ty không thể chủ động thay đổi chúng theo ý muốn của mình. Chính vì vậy, trước khi mua các dịch vụ của nhà cung cấp, cần phải có sự thẩm định, kiểm tra các loại dịch vụ đó. Công ty có thể hạn chế rủi ro này bằng cách thiết lập mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp. Với biện pháp như vậy, công ty sẽ tạo ra mối quan hệ bền vững với các nhà cung cấp.

Tăng cường công tác quảng bá du lịch

Có thể nói các doanh nghiệp lữ hành hầu hết đều nhận thức được rõ vai trò của hoạt động tuyên truyền, quảng bá trong việc cải thiện kết quả kinh

doanh. Tuy nhiên, số doanh nghiệp đã và đang tự mình thực hiện được hoạt động này không nhiều, nhất là tuyền truyền, quảng bá sản phẩm ở nước ngoài. Các doanh nghiệp còn lại do thiếu vốn, qui mô hoạt động nhỏ nên không thể thực hiện được. Tuy vậy, vẫn có thể có những hướng đi cho những doanh nghiệp này: Đó là công tác xúc tiến quảng bá sản phẩm du lịch luôn được đặt lên hàng đầu. Làm tốt công tác này sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt chính xác nhu cầu đa dạng của thị trường trong từng thời điểm. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có cơ sở để tiến hành nghiên cứu, sáng tạo sản phẩm mới, đặc thù và có tính cạnh tranh cao.

Các doanh nghiệp này cũng nên tham gia một cách tích cực vào các chương trình xúc tiến do Tổng cục Du lịch Việt Nam tổ chức để hạ chi phí và chỉ nên tập trung vào những thị trường trọng điểm. Các doanh nghiệp lớn có thể tiến hành hoạt động xúc tiến ở các thị trường như Nhật Bản và Tây Âu, còn những doanh nghiệp nhỏ thì nên hướng vào thị trường Thái Lan, Lào, Campuchia ... Các doanh nghiệp cũng cần chủ động hợp tác và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan ngoại giao, đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài, nhằm quảng bá và thu hút nguồn khách du lịch vào Việt Nam. Như vậy, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, nhất là doanh nghiệp được phép kinh doanh lữ hành quốc tế phải chủ động xây dựng các mối liên kết thông qua việc hỗ trợ xây dựng các dự án phát triển sản phẩm du lịch trong hệ thống tour, tuyến du lịch, chủ động thực hiện hỗ trợ kỹ thuật, huấn luyện và giải quyết tiêu thụ các sản phẩm du lịch tạo ra ở từng địa phương.

2.2 Đối với các đơn vị kinh doanh lưu trú

Xác định rõ phương hướng đầu tư

Chúng ta nên phân biệt hai loại khách du lịch quốc tế: Loại khách du lịch bình dân- cho đến nay, họ vẫn chưa có khả năng để thưởng thức các khách sạn có tiêu chuẩn tiện nghi hiện đại, cao cấp. Đối với loại khách du lịch này, các khách sạn hiện có hoặc đang xây dựng ở Vũng Tầu, Đà Nẵng, Bãi

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí