Du lịch kết hợp trải nghiệm văn hóa bản địa với thăm quan di tích lịch sử khu vực ATK tỉnh Thái Nguyên - 2


2.1.4. Du lịch trải nghiệm

Du lịch trải nghiệm tạm dịch trong tiếng Anh là Experience Tourism.

Du lịch trải nghiệm là hình thức du lịch giúp du khách có cơ hội trải nghiệm thực tế cuộc sống trong những môi trường mới.

Tham gia du lịch trải nghiệm là hoạt động hòa mình vào thực tế cuộc sống tại các điểm đến du lịch của du khách thông qua việc tìm hiểu thông tin và tham gia vào các hoạt động cụ thể trong vai trò là những thành viên trực tiếp của môi trường và cộng đồng bản địa.

Những hoạt động đó sẽ giúp du khách có thêm những trải nghiệm thú vị về cuộc sống trong những môi trường mới khác biệt với cuộc sống thường ngày.

Ngoài ra, du khách cũng sẽ tích lũy thêm những tri thức và kinh nghiệm thực tế về thiên niên, văn hóa, xã hội nhờ việc tham gia vào các hoạt động cụ thể cùng với cộng đồng tại địa phương họ đến trải nghiệm du lịch.

Du lịch trải nghiệm có thể là du lịch văn hóa, du lịch di sản, du lịch sinh thái hay du lịch mạo hiểm... Nói cách khác, du lịch trải nghiệm có thể là bất kì loại hình du lịch nào mà có thêm yếu tố "trải nghiệm".

Sự trải nghiệm được thể hiện qua việc du khách trực tiếp tham gia hoạt động, cảm nhận bằng các giác quan của mình, sau đó tự rút ra kinh nghiệm hay tạo kỉ niệm riêng biệt cho bản thân.

Điểm khác biệt duy nhất và cũng là quan trọng nhất chính là du lịch trải nghiệm không đi theo lối mòn, không dựa trên bất kì tiêu chuẩn lựa chọn điểm thông thường hay các hoạt động nhàm chán, khác xa so với du lịch tham quan với mục đích hưởng thụ, nhìn ngắm phong cảnh, chụp ảnh lưu niệm là chính.

Nó đòi hỏi du khách năng động hơn, chủ động hơn và phải tự mình làm tất cả. Hướng dẫn viên không còn là người thuyết trình xuyên suốt hay là hoạt náo viên thông thường mà lúc này, hướng dẫn viên đóng vai trò như một người khơi gợi, dẫn dắt du khách vào những hoạt động, quan sát, hỗ trợ khi cần thiết.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 38 trang tài liệu này.

2.2. Khái quát về công nghệ GIS và bản đồ du lịch

2.2.1. Khái quát về công nghệ GIS

2.2.1.1. Định nghĩa về GIS

Xuất phát từ lĩnh vực địa lý, địa chất, môi trường, tài nguyên… các nhà khoa học đã sử dụng GIS cho các công tác trình nghiên cứu của mình đã được định nghĩa: [10]

- “Hệ thống thông tin địa lý là tập hợp đa dạng các công cụ dùng để thu thập, lưu trữ, truy cập, biến dổi và thể hiện dữ liệu không gian ghi nhận được từ thế giới thực tiễn” (Burroughs, 1986).

- “Hệ thống thông tin địa lý là hệ thống có cức năng xử lý các thông tin địa lý nhằm phục vụ việc quy hoạch, trợ giúp quyết định một lĩnh vực chuyên môn nhất định” (Pavlidis, 1982).

Từ những chức năng cần có cửa một hệ thống thông tin địa lý, một số nhà khoa học đã định nghĩa:

- “Hệ thống thông tin địa lý là hộ thống quản trị cơ sở dữ liệu trên máy tính để thu thập, lưu trữ, truy cập, phân tích và thể hiện dữ liệu không gian” (NCGIA = National Center for Geographic Information and Analsis, 1988).

- “Hệ thống thông tin địa lý là một hệ thống chứa hàng loạt chức năng phức tạp dựa khả năng của máy tính và các toán tử xử lý thông tin không gian” (Tomlinson and Boy, 1981; Dangemond, 1983).

- Từ những định nghĩa trên cho thấy hệ thống thông tin địa lý có những khả năng của một hệ thống máy tính (phần cứng, phần mềm và các thiết bị ngoại vi) dùng để nhập, lưu trữ, truy vấn, xử lý, phân tích và hiển thị hoặc xuất dữ liệu. Trong đó, cơ sở dữ liệu của hệ thống là những dữ liệu về các đối tượng, các hoạt động, các sự kiện kinh tế, xã hội, nhân văn phân bổ theo không gian.

Hình 2.1. Các thành phần của GIS

2.2.1.2. Các thành phần của GIS

Hệ thống GIS có 5 thành phần chính, bao gồm phần cứng (hardware), phần mềm (software), con người (people), dữ liệu (data) và phương pháp (method). Năm thành phần này phải cân bằng, hoàn chỉnh để GIS có thể hoạt động hiệu quả. [9]

- Phần cứng

Gồm máy vi tính, các thiết bị ngoại vi như bàn số hóa (DIGITIZER), máy quét (SCANER), máy in (PRINTER), máy vẽ (PLOTTER), địa CD. Ngày nay, phần mềm GIS chạy được trên nhiều chủng loại phần cứng khác nhau, từ các máy chủ trung tâm (computer servers) tới các máy tính (desktop) được sử dụng riêng lẻ hoặc nôi mạng.

- Phần mềm

Là tập hợp các câu lệnh, chỉ thị nhằm điểu khiển phần cứng của máy tính thực hiện một nhiện vụ xác định, phần mềm hệ thống thông tin địa lý có thể là một hoặc tổ hợp các phần mềm máy tính. Phần mềm được sử dụng trong kỹ thuật GIS phải bao gồm các tính năng cơ bản sau:

- Nhập và kiểm tra dữ liệu (Data input);

- Lưu trữ và quản lý cơ sở dữ liệu (Geographic database);

- Xuất dữ liệu (Display and reporting);

- Biến đổi dữ liệu (Data transformation);

- Tương tác với người dùng (Query input).

- Dữ liệu

Dữ liệu được sử dụng trong GIS không chỉ là số liệu địa lý (geo-referenced data) riêng lẻ mà còn phải được thiết kế trong một cơ sở dữ liệu (database). Những thông tin địa lý có nghĩa là sẽ bao gồm các dữ kiện về (1) vị trí địa lý, (2) thuộc tính (attributes) của thông tin, (3) môi liên hệ không gian (spatial relationships) của các thông tin, và (4) thời gian. Có 2 dạng số liệu được sử dụng trong kỹ thuật GIS là:

- Cơ sở dữ liệu bản đồ

- Số liệu thuốc tính (Attribute)

- Con người

Con người là yếu tố quyết định sự thành công cho sự phát triển một dự án về GIS, họ là các chuyên viên tin học, các chuyên gia về lĩnh vực khác nhau, chuyên gia GIS, thao tác viên GIS, phát triển ứng dụng GIS.

Người sử dụng hệ thống là những người sử dụng GIS để giải quyết các vấn đề không gian. Họ thường là những người được đào tạo tốt về lĩnh vực GIS hay GIS chuyên dụng. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là số hóa bản đồ, kiểm tra lỗi, soạn thảo, phân tích các dữ liệu thô và đầu ra các giải pháp cuối cùng để truy vấn dữ liệu địa lý.

- Phương pháp

Là việc phân tích dữ liệu không gian như tạo vùng đệm, phân tích vùng lân cận, phân tích thống kê không gian… phân tích và ghi các dữ liệu thuộc tính về biến… Ngoài ra, GIS còn sử dụng các phương pháp nội suy không gian dựa trên điểm, vùng… Sử dụng phương pháp đô và tính toán, chuyển hệ tọa độ nhằm mục đích trả lời những câu hỏi được đặt ra hay bài toán cần giải quyết.

2.2.1.3. Tình hình nghiên cứu ứng dụng công nghệ GIS tại Việt Nam

- Tại tỉnh Hà Giang đã tiến hành “ Nghiên cứu ứng dụng hệ thống thông tin địa lý GIS xây dựng bản đồ trực tuyến quản lý không gian du lịch”,hiện đang được triển khai thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu, đưa ra định hướng quy hoạch, giải pháp

phát triển du lịch trên cơ sở phân tích không gian du lịch. Trong đó, phân vùng quy hoạch không gian phát triển du lịch, chỉ giới địa lý, phân chia các khu vực bảo tồn nghiêm ngặt, khai thác hợp lý tiềm năng du lịch với sự tham gia của cộng đồng. Về giải pháp phát triển du lịch, sẽ xây dựng cơ cấu ngành nghề hợp lý, phát huy kiến thức bản địa, ưu tiên phát triển theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, tuyên truyền, bồi dưỡng ý thức bảo tồn các di sản, đề xuất các chính sách phù hợp với văn hóa truyền thống...Sau khi đề tài được thực hiện thành công, đã được triển khai đào tạo, chuyển giao công nghệ bản đồ du lịch trực tuyến cho cán bộ làm công tác quản lý du lịch về cách thức xây dựng, thành lập bản đồ trực tuyến, cách thức truy cập, cập nhật, triết xuất số liệu thống kê về thông tin du lịch theo yêu cầu thực tế địa phương. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho việc quy hoạch và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển du lịch nói riêng. Đề tài nghiên cứu là tài liệu quan trọng phục vụ cho công tác quản lý, khai thác du lịch của UBND tỉnh, Sở văn hóa thông tin và du lịch, BQL Công viên Địa chất Toàn cầu - Cao nguyên đá Đồng Văn. Đề tài nghiên cứu cũng là cơ sở, hỗ trợ trong việc đề cử ứng viên Di sản thiên nhiên thế giới. Kết quả nghiên cứu cũng là tài liệu phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại một số khoa của Đại học Thái Nguyên. [2]

2.2.2. Giới thiệu về MapInfo

2.2.2.1. Sơ lược về MapInfo

Hình 2 2 Phần mềm Mapinfo Phần mềm Mapinfo là một công cụ khá công hiệu để 1

Hình 2.2. Phần mềm Mapinfo

Phần mềm Mapinfo là một công cụ khá công hiệu để tạo ra và quản lý cơ sở dữ liệu địa lý vừa và nhỏ trên máy tính cá nhân. Sử dụng công cụ Mapinfo có thể thực hiện xây dựng một hệ thống thông tin địa lý, phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học và sản xuất cho tất cả các tổ chức kinh tế xã hội của ngành và của địa phương. Ngoài ra Mapinfo là một phần mềm tương đối gọn nhẹ và dễ sử dụng, đặc biệt dùng cho mục đích giảng dạy về GIS rất hiệu quả.

2.2.2.2. Tổ chức thông tin bản đồ trong MapInfo

Các thông tin trong Mapinfo được tổ chức theo từng bảng, mỗi bảng là một tập hợp các file về thông tin đồ hoạ chứa các bảng ghi dữ liệu mà hệ thống tạo ra. Chỉ có thể truy cập vào các chức năng của phần mềm Mapinfo, Table mà trong đó có chứa các tập tin sau đây:

- Tập tin *.tab chứa các thông tin mô tả cấu trúc dữ liệu, đó là các file ở dạng văn bản mô tả khuôn dạng của file lưu trữ thông tin.

- Tập tin *.dat chứa các thông tin nguyên thuỷ, phần mở rộng của thông tin này có thể là *wks, dbf, xls, … nếu chúng ta làm việc với thông tin nguyên thuỷ là các số liệu từ Lotus 1 2 3, dbase/foxbase và excel.

- Tập tin *.map bao gồm các thông tin mô tả các đối tượng địa lý.

- Tập tin *.id bao gồm các thông tin về sự liên kết các đối tượng với nhau.

- Tập tin *.ind chứa các thông tin về chỉ số đối tượng. Tập tin này chỉ có khi trong cấu trúc của Table đã có ít nhất một trường dữ liệu đã được chọn làm chỉ số khoá (index). Thông qua các thông tin của file này chúng ta có thể thực hiện tìm kiếm thông tin thông qua một chỉ tiêu cho trước bằng chức năng file của Mapinfo.

2.2.2.3. Tổ chức thông tin theo các lớp đối tượng

Các thông tin bản đồ trong GIS thường được tổ chức quản lý theo từng lớp đối tượng. Mỗi Hệ thống thông tin địa lý. Mỗi một lớp thông tin chỉ thể hiện một khía cạnh của mảnh bản đồ tổng thể. Lớp thông tin là một tập hợp các đối tượng bản đồ thuần nhất, thể hiện và quản lý các đối địa lý trong không gian theo một chủ đề cụ thể, phục vụ một mục đích nhất định trong hệ thống. Với các tổ chức thông tin theo từng lớp đối tượng như vậy đã giúp cho phần mềm Mapinfo xây dựng thành các

khối thông tin độc lập cho các mảnh bản đồ máy tính điều đó giúp cho phần mềm Mapinfo xây dựng thành các khối thông tin độc lập cho các mảnh bản đồ máy tính điều đó giúp chúng ta thêm vào mảnh bản đồ đã có các lớp thông tin mới hoặc xoá đi các lớp đối tượng khi không cần thiết.

Các đối tượng bản đồ chính mà trên cơ sở đó Mapinfo sẽ quản lý, trừu tượng hoá các đối tượng địa lý trong thế giới thực vật và thể hiện chúng thành các loại bản đồ khác nhau.

- Đối tượng vùng: Thể hiện các đối tượng khép kín hình học và bao phủ một vùng diện tích nhất định.

- Đối tượng điểm: Thể hiện vị trí cụ thể của đối tượng địa lý.

- Đối tượng đường: Thể hiện các đối tượng không gian khép kín hình học và chạy dài theo một khoảng cách nhất định.

- Đối tượng chữ: Thể hiện các đối tượng không gian không phải là địa lý của bản đồ.

2.2.2.4. Sự liên kết thông tin thuộc tính với các đối tượng bản đồ

Một đặc điểm khác biệt của các thông tin trong GIS so với các thông tin trong các hệ đồ hoạ trong các máy tính khác là sự liên kết chặt chẽ, không thể tách rời giữa các thông tin thuộc tính với các đối tượng bản đồ. Trong cơ cấu tổ chức và quản lý của cơ sở dữ liệu Mapinfo sẽ được chia làm 2 phần cơ bản là cơ sở dữ liệu thuộc tính và cơ sở dữ liệu bản đồ. Các bảng ghi trong các cơ sở dữ liệu này được quản lý độc lập với nhau.

2.2.3. Khái quát về bản đồ du lịch

2.2.3.1. Đặc điểm của bản đồ du lịch

- Bản đồ du lịch là một loại bản đồ thể hiện các thông tin liên quan đến du lịch, chủ yếu gồm: Địa điểm các thành phố lớn; các di tích lịch sử, văn hóa; các danh lam thắng cảnh; lễ hội; hệ thống giao thông như sân bay, đường bộ, đường sắt.

- Bản đồ du lịch thể hiện nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên, xã hội và nhân văn, thể hiện các cụm, tuyến, điểm du lịch; tổ chức lãnh thổ du lịch; đánh giá và định hướng khai thác tài nguyên du lịch. [9]

2.2.2.2. Phân loại bản đồ du lịch:

- Nếu dựa theo mục đích các bản đồ du lịch có thể phân ra làm hai loại : [9]

+ Bản đồ du lịch phục vụ nghiên cứu bao gồm các bản đồ hiện trạng tài nguyên du lịch, các bản đồ đánh giá và định hướng khai thác các tiềm năng du lịch, các bản đồ qui hoạch du lịch, các bản đồ tổ chức lãnh thổ du lịch …

+ Các bản đồ phục vụ khách du lịch bao gồm các bản đồ phản ánh các điều kiện du lịch, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch, các tuyến điểm du lịch, các loại hình du lịch (tham quan, nghỉ dưỡng, sinh thái, thể thao, vui chơi giải trí, du lịch cuối tuần…)

- Nếu phân theo phạm vi lãnh thổ, các bản đồ du lịch được chia thành: [9]

+ Các bản đồ du lịch thế giới biểu hiện các địa điểm du lịch nổi tiếng thế giới.

+ Các bản đồ du lịch các châu lục biểu hiện các danh thắng, kỳ quan của châu lục.

+ Các bản đồ du lịch quốc gia biểu hiện những danh thắng nổi tiếng của đất nước, các bản đồ quy hoạch phát triển du lịch quốc gia.

+ Các bản đồ du lịch vùng (như vùng du lịch Bắc Bộ, vùng du lịch Bắc Trung Bộ, vùng du lịch Nam Trung Bộ, vùng du lịch Nam Bộ…) biểu hiện các vùng văn hoá, văn minh, các trung tâm du lịch, các cảnh quan, các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch, các tuyến điểm du lịch…

+ Các bản đồ du lịch tỉnh, thành phố (như bản đồ du lịch thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nghệ An…) biểu hiện các cụm, các tuyến, điểm du lịch, hệ thống giao thông, các loại rừng quốc gia, các khu bảo tồn môi trường, các khu bảo tồn văn hoá lịch sử…

+ Bản đồ du lịch tuyến trình bày các tuyến du lịch chính, các tuyến du lịch phụ trợ, các tuyến du lịch đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, các tuyến du lịch chuyên đề, các tuyến du lịch liên vùng, các tuyến du lịch quốc tế v.v… và nội dung du lịch của các đỉểm trên tuyến.

+ Bản đồ hướng dẫn du lịch điểm biểu hiện nội dung du lịch của một điểm du lịch cụ thể.

2.3. Hoạt động về du lịch văn hóa bản địa kết với với di tích lịch sử

2.3.1. Hoạt động về du lịch văn hóa bản địa kết với với di tích lịch sử trên thế giới.

Trên thế giới, du lịch văn hóa đã từ lâu và sẽ mãi mãi là trường phái hay dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Đặc biệt đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ có chiều sâu văn hóa đo bằng hệ thống di sản đậm đặc như nước ta thì du lịch di sản trở thành một trong những thế mạnh nổi trội. Ngày nay, du lịch di sản hướng thu hút khách tìm đến những giá trị về nguồn, tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm để thẩm thấu những giá trị di sản văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc, các tộc người. [14]

Tổ chức Du lịch thế giới – UNWTO nhận định, đến năm 2030, khách du lịch đi với mục đích thăm viếng, sức khỏe, tôn giáo sẽ chiếm 31% tổng lượng khách du lịch; với mục đích thăm quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí chiếm 54%; với mục đích công việc và nghề nghiệp chiếm 15%.

Theo này dự báo trong thời gian tới, du lịch toàn cầu tiếp tục tăng trưởng theo các xu hướng chủ đạo như: Nhu cầu du lịch toàn cầu bùng bổ, đặc biệt trong giới trung lưu đang tăng lên tại Trung Quốc, tạo cơ hội kinh tế đáng kể cho các điểm đến khu vực Đông Nam Á. Đất nước tỷ dân trở thành thị trường nguồn lớn nhất thế giới và sẽ tác động mạnh đến chính sách phát triển du lịch của nhiều quốc gia.

Trong giai đoạn 2018-2028, nhu cầu du lịch sẽ tăng 4% hàng năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương được dự báo đón 535 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2030, đứng đầu thế giới.

Tuy mục đích của đa số thị trường khách vẫn là thăm quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí, song nhiều nhu cầu mới sẽ hình thành. Du khách ngày càng quan tâm tới nhu cầu trải nghiệm hướng tới những giá trị mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống (tính khác biệt, đặc sắc, nguyên bản), giá trị tự nhiên (tính nguyên sơ, độc đáo), giá trị sáng tạo và công nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi).

Đăc biệt, du lịch chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ngày càng phổ biến. Phát triển du lịch có trách nhiệm, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng vừa là xu hướng vừa là đòi hỏi tất yếu đối với ngành du lịch để thực hiện nguyên tắc và mục tiêu phát triển bền vững.

Với cảnh sắc thiên nhiên yên bình, nên thơ, pha lẫn nét trầm mặc, cổ kính của những mái chùa, đất nước Lào đã làm say lòng nhiều khách du lịch quốc tế. Những năm qua, "ngành công nghiệp không khói" của Lào phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia châu Á này.

Tại Hội nghị tổng kết công tác thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch Lào năm 2018 diễn ra mới đây ở thủ đô Viêng Chăn, Bộ trưởng Thông tin, Văn hóa và Du lịch Lào Bosengkham Vongdara thông báo, Chính phủ Lào coi du lịch là một ngành kinh tế quan trọng, góp phần tích cực phát triển nền kinh tế đất nước. Trong Năm Du lịch quốc gia 2018, Lào đã triển khai hàng loạt hoạt động xúc tiến du lịch phong phú, đa dạng tại tất cả các địa phương, nhằm thu hút du khách. Các hoạt động này đi sâu vào giới thiệu những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của Lào, nếp sinh hoạt của người dân từng địa phương, cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Nhiều hội chợ hàng hóa, du lịch với các gian hàng trưng bày sản phẩm thủ công, mỹ nghệ của Lào và các nước Ðông Nam - Á như Việt Nam, Thái-lan, Malaysia... được tổ chức.Những năm gần đây, ngành công nghiệp "không khói" đã mang lại kết quả tích cực cho nền kinh tế của đất nước Triệu Voi, giúp thúc đẩy các ngành nghề liên quan, tạo việc làm cho người dân và kích thích phát triển kết cấu hạ tầng. Theo Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch Lào, trong năm 2018 đã có hơn 4,1 triệu lượt du khách quốc tế đến Lào, tăng 8,2% so với năm 2017.

Trong các năm qua, Thái Lan đã khẳng định vị trí tại khu vực và thế giới về phát triển du lịch. Năm 2013 Thái Lan đã nhận được giải thưởng “Điểm đến được ưa thích nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”, do Travel Trade News trao tặng. Cũng năm 2013, độc giả báo Travel+ Leisure bình chọn Thái Lan ở hai giải thưởng là điểm đến được ưa thích nhất và địa điểm tổ chức đám cưới tốt nhất. Thủ đô Bangkok và thành phố Chiang Mai cũng được độc giả báo Condé Nast Traveller bầu chọn trong danh sách 25 thành phố du lịch tốt nhất, 8 khu nghỉ mát của Thái Lan lọt vào danh sách top 20 “Khu nghỉ mát tốt nhất” khu vực châu Á. Du lịch văn hóa là một trong những loại hình du lịch của Thái Lan hấp dẫn nhiều du khách. Sản phẩm du lịch văn hóa ở Thái Lan bao gồm việc thăm quan các đền chùa (đặc biệt là các chùa Phật giáo), bảo tàng, các di tích lịch sử… Du khách không chỉ được tận

mắt chứng kiến sự độc đáo của văn hóa Thái Lan mà còn được tự mình thưởng thức và trải nghiệm nền văn hóa đó.

Còn ở Nhật Bản, những công trình, quần thể kiến trúc có giá trị lịch sử - văn hóa đều được bảo hộ theo Luật Bảo tồn đền chùa cổ. Song thời gian gần đây đối tượng được bảo vệ đã mở rộng hơn bao gồm làng mạc lịch sử, kiến trúc nhà bình dân. Địa phương cũng áp dụng linh hoạt các chính sách để đề ra chế độ thẩm định kỹ thuật bảo tồn những công trình kiến trúc công cộng, nhà cửa gắn với phong tục, tập quán, hoạt động, lễ hội hằng năm của người dân. Những tài sản này được Cục Văn hóa và chính quyền địa phương tài trợ cho việc tu sửa, phòng cháy, hoạt động thể nghiệm, trong đó việc tu sửa được tiến hành định kỳ. Nhờ đó, người Nhật Bản không chỉ bảo tồn nguyên vẹn giá trị văn hóa mà còn giữ được đặc trưng vốn có của các công trình kiến trúc ở mỗi vùng miền.

Song hành với công việc bảo tồn các công trình kiến trúc, người Nhật Bản còn biết phát huy những đặc trưng văn hóa truyền thống vào phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương. Hằng năm, những địa điểm này thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước, đưa lại nguồn thu lớn, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương.

2.3.2. Hoạt động về du lịch văn hóa bản địa kết với với di tích lịch sử ở Việt Nam

Nước ta có tiềm năng lớn về nhiều mặt để phát triển du lịch, có điều kiện thiên nhiên phong phú, có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, có truyền thống văn hóa lâu đời với nhiều lễ hội, phong tục tập quán tốt đẹp và độc đáo, nhiều di tích lịch sử, tôn giáo, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, giàu bản sắc nhân văn, nguồn lao động dồi dào thông minh, cần cù và giàu lòng nhân ái. Trong những năm gần đây, ngành Du lịch đã có những đổi mới, từng bước phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện bước đầu thu hút khách nước ngoài và kiều bào về thăm Tổ quốc, giới thiệu đất nước, con người và tinh hoa của dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế.[14]

Bên cạnh đó, hệ thống di sản thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận liên tiếp gia tăng về số lượng là các trọng tâm trong thực tiễn xây dựng sản phẩm, thu hút khách du lịch. Các sản phẩm như tham quan cảnh quan vịnh Hạ Long, tham quan di sản văn hoá Huế, phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn; du lịch mạo hiểm khám phá hang động Phong Nha-Kẻ Bàng, du lịch nghỉ dưỡng biển Mũi Né, Phú Quốc,

du lịch sự kiện Nha Trang... ngày càng thu hút được sự quan tâm lớn của khách du lịch trong và ngoài nước. Các lễ hội được tổ chức ở quy mô lớn đã trở thành những sản phẩm du lịch quan trọng, như: lễ hội Chùa Hương, lễ hội bà chúa Xứ, festival Huế, carnaval Hạ Long, lễ hội pháo hoa Đà Nẵng, festival hoa Đà Lạt... Những sản phẩm và những giá trị nổi bật của điểm đến Việt Nam dần được hình thành và định vị tại các thị trường khách du lịch mục tiêu. Các khu, điểm du lịch quốc gia và các đô thị du lịch là những điểm nhấn quan trọng hình thành sản phẩm du lịch được định hướng phát triển tại Chiến lược phát triển ngành Du lịch. Tuy nhiên, hầu như chưa được chú trọng đầu tư đúng mức, đến nay mới chỉ có Hạ Long - Cát Bà, Hội An, Mỹ Sơn là phát huy được tiềm năng du lịch. Một số khu du lịch, công trình nhân tạo khác cũng có sức hút tạo sản phẩm như thủy điện Sơn La, chùa Bái Đính, hầm đèo Hải Vân, khu vui chơi tổng hợp Đại Nam...[16]

Theo đó, hướng vào mục tiêu thị trường khách du lịch quốc tế từ các nước khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga và các nước trong khối ASEAN, khách du lịch nội địa từ các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, vùng núi phía Bắc, tỉnh sẽ tập trung phát triển các tour du lịch, khu, điểm du lịch trọng điểm như: Tam Đảo, Tây Thiên, Đại Lải, Vĩnh Thịnh, đồng thời, kêu gọi đầu tư các khu, điểm du lịch theo hướng xây dựng các khu nghỉ dưỡng cao cấp và phát triển các loại hình du lịch mạo hiểm, du lịch văn hóa cộng đồng. Đặc biệt, sẽ khuyến khích, hỗ trợ phát triển các loại hình du lịch dựa vào cộng đồng, du lịch nông thôn, nông nghiệp, làng nghề truyền thống, du lịch sinh thái; tăng cường năng lực tham gia của động đồng. Tuyên truyền nâng cao nhận thức, hướng dẫn kỹ thuật; hỗ trợ trang thiết bị cơ bản cho cộng đồng, phát triển mô hình homestay. Tăng cường trách nhiệm kinh tế, chia sẻ lợi ích với cộng đồng; hỗ trợ xúc tiến quảng bá du lịch cộng đồng; hỗ trợ chuyển đổi nghề sang làm du lịch ở các vùng nông thôn.

2.3.3. Hoạt động về du lịch văn hóa bản địa kết với với di tích lịch sử ở khu vực phía Bắc và tỉnh Thái Nguyên.

2.3.3.1. Khu vực phía Bắc

Các tỉnh miền núi phía Bắc có địa hình khá hiểm trở, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi đá vôi tạo nên những cung đường uốn lượn cùng cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ. Ðây còn là nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với những

phong tục tập quán độc đáo và đa dạng, mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền, là điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều loại hình du lịch, trong đó tiêu biểu là du lịch cộng đồng trải nghiệm văn hóa bản địa. Việc phát triển hình thức du lịch cộng đồng là loại hình du lịch xanh lý tưởng đối với những người yêu thích khám phá văn hóa bản địa. Hiện mô hình này đã được áp dụng phổ biến ở 3 tỉnh Hà Giang, Lào Cai và Ðiện Biên, thu hút nhiều du khách, đặc biệt là khách quốc tế.[15]

Sau tám năm thực hiện Chương trình hợp tác phát triển du lịch tám tỉnh Tây Bắc mở rộng, du lịch của các tỉnh khu vực này có nhiều khởi sắc, góp phần bảo tồn văn hóa bản địa, tạo động lực cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, dịch vụ du lịch tại đây vẫn còn nhiều tiềm năng, dư địa để phát triển mạnh hơn nữa, đưa du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của vùng.

Cùng với thu hút nguồn lực đầu tư, các địa phương phát triển nhiều loại hình du lịch, trên cơ sở khai thác, phát huy giá trị cảnh quan thiên nhiên, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể trên địa bàn. Trong số đó, du lịch cộng đồng đã trở thành thương hiệu của du lịch Tây Bắc. Tỉnh Hòa Bình là địa phương tiên phong thúc đẩy loại hình du lịch này, được nhiều tỉnh đến tham quan học tập. Tỉnh hiện có hơn 140 hộ làm du lịch cộng đồng, trong đó Khu du lịch bản Lác, Mai Hịch (Mai Châu) và khu du lịch Đá Bia của huyện Đà Bắc được trao giải “Những điểm du lịch cộng đồng có chất lượng và đạt tiêu chuẩn môi trường xanh” của ASEAN.

Tại Lào Cai, với chương trình “biến di sản thành tài sản” và “mỗi cộng đồng, mỗi làng, bản có một sản phẩm đặc trưng giúp người dân xóa đói, giảm nghèo”, đến nay, tỉnh đã xây dựng được 13 điểm du lịch cộng đồng, tập trung chủ yếu ở các huyện Sa Pa và Bắc Hà, thu hút rất đông khách du lịch, đem lại nguồn thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Đến điểm du lịch cộng đồng ở xã Tả Van (huyện Sa Pa) vào một ngày hè, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy trẻ em người nước ngoài nô đùa với trẻ em người dân tộc thiểu số rất tự nhiên, vui vẻ và thân thiện. Từng tốp du khách nước ngoài tham quan khu sản xuất nông nghiệp ruộng bậc thang, thắng cảnh suối Mường Hoa, học cách dệt sợi lanh, nhuộm chàm, vẽ sáp ong trên thổ cẩm…, theo lời giới thiệu của các “hướng dẫn viên” địa phương.

Chị Pô-lin In-lơ-dăm, người Pháp lưu trú tại homestay thôn Tả Van Giáy 2 chia sẻ: “Gia đình tôi chọn tua du lịch cộng đồng để được nghỉ tại nhà dân trong bản, tìm hiểu văn hóa và tập quán của họ”. Chủ tịch UBND xã Tả Van Lý Văn Hiển cho biết, cụm homestay Tả Van Giáy 1 là một trong năm cụm homestay của Việt Nam đoạt giải thưởng ASEAN. Hiện ở địa phương có hơn 40 hộ đăng ký làm mô hình du lịch cộng đồng, vào mùa cao điểm, mỗi ngày có từ 200 đến 300 khách lưu trú trong thôn.

Bản Hủa Khắt, xã Nậm Khắt, huyện Mù Cang Chải (tỉnh Yên Bái) nằm ở độ cao gần 1.000 m, sát chân đèo Khau Phạ thuộc dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ mấy năm nay thu hút được nhiều khách du lịch, bởi không khí trong lành, mọi tập quán, sinh hoạt của người Mông vẫn được giữ nguyên bản sắc. Khang A Chua, chàng trai dân tộc Mông, 29 tuổi, quản lý khu du lịch sinh thái Mù Cang Chải Ecolodge cho biết: Lượng khách du lịch lưu trú chủ yếu là người Pháp, Anh, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, trong đó khách Pháp chiếm 70%. Bí thư Đảng ủy xã Nậm Khắt Trang Thế Sửu cho biết, làm du lịch cộng đồng giúp cuộc sống của người dân ngày một khấm khá, con em trong độ tuổi đều được đến trường. Cho đến nay, tỉnh Yên Bái có hơn 120 hộ dân làm du lịch cộng đồng tập trung tại thị xã Nghĩa Lộ, các huyện Mù Cang Chải, Yên Bình.

Lai Châu phát triển loại hình du lịch này muộn hơn, nhưng đến nay có bản Sin Suối Hồ (xã Sin Suối Hồ, huyện Phong Thổ), bản Sì Thâu Chải (xã Hồ Thầu), bản Lao Chải 1 (xã Khun Há), bản Thẳm (xã Bản Bo) đều thuộc huyện Tam Đường… làm du lịch cộng đồng khá tốt. Tại các bản này, hoạt động sản xuất nông nghiệp đều gắn với dịch vụ du lịch. Các hộ dân trồng cây địa lan và một số cây ăn quả ôn đới, vừa tạo cảnh quan, vừa phục vụ nhu cầu thưởng lãm, trải nghiệm việc thu hái trái cây của du khách. Người dân trong bản tự góp đất xây dựng thành chợ phiên của bản họp vào thứ bảy, chủ nhật hằng tuần, làm nơi tiêu thụ nông sản địa phương, đồng thời cũng là nơi khách du lịch trải nghiệm, mua sắm nông sản, sản phẩm thủ công truyền thống. Theo Trưởng bản Vàng A Chỉnh, từ ngày mở cửa làm du lịch đến nay, đời sống của người dân được cải thiện, hầu như hộ nào cũng có thu nhập từ dịch vụ du lịch. Hộ ít thì vài chục triệu đồng/năm, hộ nhiều thì vài trăm triệu

đồng/năm. Nhiều hộ đang dự định mở dịch vụ homestay, trồng thêm một số cây ôn đới đặc thù tạo thêm không gian khám phá trải nghiệm cho khách du lịch khi đến với bản.

Những năm gần đây các tỉnh Tây Bắc đều tập trung đầu tư, xây dựng các sản phẩm du lịch mới, phù hợp lợi thế của địa phương. Đơn cử các lễ hội gắn với sản phẩm nông nghiệp như lễ hội trà Mộc Châu, ngày hội xoài Yên Châu, các tua tham quan đồi chè, trang trại bò sữa, vườn hoa cải, hoa lan, dâu tây ở Mộc Châu, đã đưa Sơn La trở thành điểm đến hấp dẫn ở thị trường du lịch miền bắc. Năm 2018, lượng khách du lịch đến tỉnh này đạt hơn hai triệu lượt, không chỉ mang lại doanh thu lớn, mà còn thúc đẩy người dân chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng nông nghiệp sinh thái. Tỉnh Yên Bái tập trung đầu tư sản phẩm du lịch mạo hiểm với việc tổ chức sự kiện “Bay trên mùa vàng” vào tháng 9 hằng năm.

Năm 2013 - năm đầu tiên tổ chức, thu hút hơn 1.000 người tham dự, sau 5 năm tổ chức, con số này lên hơn 20 nghìn người. Từ năm 2017, huyện tổ chức thêm sự kiện “Bay trên mùa nước đổ” vào tháng 5. Phó Chủ tịch UBND huyện Lương Thị Xuyến cho biết: Trước đây Mù Cang Chải là vùng đất nghèo khó, xa xôi, ít người biết đến. Nay hình ảnh những cánh dù bay lượn trên ruộng bậc thang Mù Cang Chải trong mùa nước đổ tháng 5, mùa vàng tháng 9, được báo chí ngợi ca, giúp cuộc sống người dân địa phương được nâng lên.

Những năm gần đây, các tỉnh xây dựng được một số sản phẩm du lịch mới, đó là du lịch thể thao như: Giải đua ngựa truyền thống Bắc Hà (Lào Cai); Giải ma-ra-tông leo núi quốc tế, Giải đua xe đạp quốc tế một vòng đua hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc, Giải đua xe đạp địa hình Xín Mần (Hà Giang) - Bắc Hà (Lào Cai). Các tua du lịch chinh phục đỉnh cao như đỉnh Ky Quan San, đỉnh Lảo Thẩn (Lào Cai), các đỉnh Pu Ta Leng, Tả Liên Sơn (Lai Châu)… thu hút nhiều bạn trẻ tham gia trải nghiệm.

Bên cạnh đó, các địa phương trong vùng cũng chú trọng liên kết du lịch, không chỉ liên kết giữa các tỉnh lân cận, mà còn liên kết giữa các tỉnh trong vùng với một số trung tâm du lịch lớn của cả nước. Tiêu biểu như các chương trình: “Du lịch về nguồn” liên kết giữa các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai; “Du lịch tâm linh lưu vực sông Hồng” giữa Yên Bái và Lào Cai , “Du lịch cung đường Tây Bắc” giữa

Xem tất cả 38 trang.

Ngày đăng: 14/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí