MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế - xã hội càng phát triển thì các quan hệ dân sự, trong đó có quan hệ hợp đồng dân sự (HĐDS) cũng càng phát triển. Các chủ thể như cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân… giao kết HĐDS nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của mình như: ăn, mặc, ở, đi lại, kinh doanh, giải trí… HĐDS là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (NVDS). Trong quan hệ hợp đồng, nguyên tắc bình đẳng thỏa thuận là nguyên tắc cơ bản, sự tự do ý chí luôn được đề cao.
Khi giao kết HĐDS, các bên giao kết đều có nguyện vọng thực hiện xong hợp đồng. Thông thường, HĐDS chấm dứt theo ý chí của các bên giao kết. Hợp đồng thông thường chấm dứt khi các bên đã thực hiện xong công việc, xong nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn đã thỏa thuận tại hợp đồng, khi các bên đều đã đạt được mong muốn, mục đích của mình, các nghĩa vụ đã được thực hiện toàn bộ, các quyền tương ứng đã được đáp ứng. Các bên kết thúc hợp đồng trong "vui vẻ" khi các bên đều đáp ứng được mục đích của nhau. HĐDS cũng có thể chấm dứt "giữa chừng" theo thỏa thuận của các bên khi nghĩa vụ trong hợp đồng chưa hoàn thành hay thời hạn của hợp đồng chưa hết.
Tuy nhiên, còn có những HĐDS kết thúc do ý chí của một bên. Trong nền kinh tế thị trường, đối tượng của hợp đồng, thời hạn, chủ thể, quyền và nghĩa vụ, cách thức thực hiện hợp đồng, sự kiện khách quan tác động tới hợp đồng rất đa dạng và phức tạp nên việc thực hiện hợp đồng không phải lúc nào cũng dễ dàng, suôn sẻ. Do đó, khi hợp đồng đang thực hiện, xảy ra việc một bên trong hợp đồng muốn (và cần) chấm dứt hợp đồng ngay để bảo vệ quyền lợi cho mình khi họ có quyền thì dù bên kia vẫn muốn tiếp tục thực hiện hợp dồng cũng không duy trì hợp đồng được, đó là đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng (ĐPCDHĐ).
ĐPCDHĐ là cần thiết vì trong hợp đồng được giao kết, các bên đã xác lập quyền và nghĩa vụ với nhau, nghĩa vụ của bên này tương ứng với quyền của bên kia. Để đảm bảo quyền lợi của bên có quyền thì cần đề cao trách nhiệm của bên có nghĩa vụ. Khi hợp đồng đã giao kết, đang trong quá trình thực hiện mà vì lý do nào đó như: bên đối tác vi phạm hợp đồng hoặc vì lý do khách quan (không ai có lỗi), thậm chí cả trường hợp một bên thấy "không có lợi" thì một bên có quyền ĐPCDHĐ ấy, bởi vì nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chính họ hoặc người khác, cộng đồng. Quyền ĐPCDHĐ phải dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của chính cá chủ thể hợp đồng ấy hoặc pháp luật có quy định. Quyền này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng cho chủ thể của HĐDS và ngày càng được chú ý, quan tâm. Chính vì vậy, pháp luật về HĐDS ở nước ta đã từng bước ghi nhận, hoàn thiện quy định về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự (ĐPCDHĐDS). ĐPCDHĐDS được quy định tại Điều 426 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, ngoài ra còn được quy định rải rác trong một số HĐDS chuyên biệt trong BLDS hay lẻ tẻ trong một số văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định một cách rõ ràng, đầy đủ các về điều kiện, nguyên nhân, hậu quả, trình tự thủ tục ĐPCDHĐDS; chưa xây dựng nên những nguyên tắc cho vấn đề này. Thực trạng pháp luật về ĐPCDHĐDS còn nhiều bất cập, khiến cho việc áp dụng, thực hiện ĐPCDHĐDS rất khó khăn, phức tạp, đặc biệt với trường hợp các bên không thỏa thuận về ĐPCDHĐDS. Từ thực trạng này, rất cần thiết phải có cơ sở pháp lý đầy đủ hơn về ĐPCDHĐDS với những quy định cụ thể về nguyên tắc, điều kiện, hậu quả, trình tự thủ tục về vấn đề này nhằm giúp các bên của hợp đồng cũng như cơ quan có thẩm quyền giải quyết sự việc có liên quan. Vì ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là "Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005".
2. Thực trạng nghiên cứu đề tài
Trước khi tác giả nghiên cứu đề tài này, đã có một số công trình nghiên cứu và bài viết đề cập đến vấn đề ĐPCDHĐDS như:
- "Một số ý kiến về chế định hợp đồng dân sự trong dự thảo Bộ luật Dân sự", của Nguyễn Thị Khế, đăng trên Tạp chí Luật học, số 02 năm 1995, đã phân tích khá kỹ lưỡng về huỷ bỏ HĐDS, trong đó cũng nói sơ qua về đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, tuy nhiên tác giả không đi sâu phân tích về vấn đề này.
Có thể bạn quan tâm!
- Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 - 1
- Khái Niệm Đơn Phương Chấm Dứt Thực Hiện Hợp Đồng Dân Sự
- Nhằm Bảo Vệ Quyền Lợi Cho Bên Có Quyền Đơn Phương Chấm Dứt Thực Hiện Hợp Đồng Dân Sự
- Nguyên Nhân Dẫn Đến Đơn Phương Chấm Dứt Thực Hiện Hợp Động Dân Sự
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
- "Pháp luật về hợp đồng" của Nguyễn Mạnh Bách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, đã đề cập đến vấn đề đình chỉ, chấm dứt hợp đồng, trong đó tác giả đã phân tích sơ lược hai hình thức của ĐPCDHĐ, đó là: các đương sự thoả thuận với nhau và theo quy định của pháp luật.
- "Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, công trình của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, trong đó có đề cập đến "đơn phương đình chỉ hợp đồng" với việc trích dẫn Điều 420 BLDS năm 1995 và có bình luận rất ngắn gọn về vấn đề này.
- "Vấn đề huỷ bỏ, đình chỉ hợp đồng do bị vi phạm", của Đỗ Văn Đại, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9 năm 2004, đã phân tích huỷ bỏ, đình chỉ hợp đồng sau và trước khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng thông qua việc phân tích một số HĐDS thông dụng và có sự so sánh với pháp luật của một số nước.
- "Những điểm mới cơ bản về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005", của Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 01 năm 2006; "Một số điểm mới về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005", của Nguyễn Thị Thục, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 03 năm 2006, các bài viết tuy cũng đề cập tới vấn đề này nhưng chưa phân tích hay bình luận về ĐPCDHĐDS.
- "Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam", Luận văn thạc sĩ luật học, của Nguyễn Ngọc Oanh, 2010. Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về ĐPCDHĐDS, phân tích sâu về ĐPCDHĐDS có sự vi phạm của bên đối tác và ĐPCDHĐDS không có sự vi phạm của bên đối tác theo quy định của BLDS năm 2005. Tuy nhiên, luận văn chưa tập trung đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng quy định của BLDS hiện hành về ĐPCDHĐDS theo các góc độ khác nhau.
- "Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự năm 2005", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, công trình của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, trong đó có đề cập đến ĐPCDHĐDS với việc phân tích, bình luận khái quát Điều 426 BLDS và những quy định về ĐPCDHĐDS thông dụng trong BLDS năm 2005. Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận và việc đánh giá thực trạng quy định về vấn đề này còn rất hạn chế.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về ĐPCDHĐDS; thực trạng quy định của BLDS năm 2005 về ĐPCDHĐ và phương hướng hoàn thiện pháp luật về ĐPCDHĐDS.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Các vấn đề lý luận cơ bản về ĐPCDHĐDS như: khái niệm, đặc điểm, phân loại, trình tự, hậu quả của ĐPCDHĐDS; so sánh ĐPCDHĐDS với hủy bỏ HĐDS, so sánh ĐPCDHĐDS với ĐPCDHĐ khác.
- Phân tích thực trạng các quy định của BLDS năm 2005 về ĐPCDHĐDS có so sánh với các văn bản pháp luật nước ta và nước ngoài có liên quan
- Đề xuất và kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLDS về ĐPCDHĐ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng các phương pháp như diễn giải, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, bình luận, suy diễn logic, trích dẫn… để nghiên cứu đề tài.
6. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về ĐPCDHĐDS, thực trạng quy định hiện hành của BLDS năm 2005 về ĐPCDHĐDS và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về ĐPCDHĐDS.
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những khía cạnh sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về ĐPCDHĐ như khái niệm, đặc điểm, phân loại, hậu quả của ĐPCDHĐDS; so sánh ĐPCDHĐDS với hủy bỏ HĐDS, so sánh ĐPCDHĐDS với ĐPCD hợp đồng khác.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của BLDS năm 2005 về ĐPCDHĐ.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của các bên chủ thể HĐDS và Tòa án nhân dân (TAND) để giải quyết vấn đề ĐPCDHĐDS.
- Đưa ra phương hướng nhằm hoàn thiện các quy định của BLDS về ĐPCDHĐ.
7. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan đến ĐPCDHĐDS. Trong luận văn có những điểm mới sau đây:
- So sánh ĐPCDHĐDS với ĐPCDHĐ khác;
- Tập trung phân tích, đánh giá thực trạng quy định của BLDS năm 2005 về ĐPCDHĐ, so sánh với quy định của pháp luật dân sự nước ta trước đó và quy định của pháp luật một số nước về vấn đề này;
- Đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định của BLDS về ĐPCDHĐ.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự.
Chương 2: Thực trạng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và thực tiễn áp dụng pháp luật về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật Dân sự về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.1. Khái quát về hợp đồng dân sự và thực hiện hợp đồng dân sự
1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Điều 388 BLDS năm 2005 quy định: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [27].
Chế định hợp đồng trong luật dân sự Việt Nam là tập hợp các quy phạm pháp luật dân sự quy định về HĐDS. Đây là một chế định quan trọng, trung tâm trong luật dân sự Việt Nam. Trong BLDS năm 2005 của nước ta, chế định về HĐDS đã được khẳng định với 205 điều trên tổng số 777 điều luật (từ Điều 388 đến Điều 593) đó là chưa kể đến 45 điều quy định về các hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất (từ Điều 693 đến Điều 732). Điều đó chứng tỏ chế định HĐDS đóng vai trò rất quan trọng.
Với việc ban hành BLDS năm 2005, từ ngày 01/01/2006, các quy định về HĐDS trong BLDS năm 2005 sẽ điều chỉnh chung cho các quan hệ về hợp đồng giữa các pháp nhân, cá nhân với nhau. Như vậy, từ thời điểm này không còn sự phân biệt giữa hai loại hợp đồng kinh tế - dân sự theo căn cứ về chủ thể ký kết hợp đồng, mục đích giao kết hay các vấn đề có liên quan khác.
1.1.2. Thực hiện hợp đồng dân sự
Thực hiện HĐDS là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền dân sự tương ứng của bên kia, nhằm thực hiện những nghĩa vụ phát sinh trong hợp đồng. Những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên,
tức là hợp đồng có tính chất là "luật" giữa các bên. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng.
Việc thực hiện HĐDS phải tuân theo những nguyên tắc sau: Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác; thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau; không được xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 412 BLDS năm 2005).
Khi thực hiện HĐDS ngoài việc tuân thủ các quy tắc đã được quy định thì việc thực hiện hợp đồng còn phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định đối với từng loại hợp đồng cụ thể như sau:
- Với hợp đồng đơn vụ (chỉ một bên có nghĩa vụ còn một bên có quyền), bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thoả thuận; chỉ được thực hiện trước hoặc sau thời hạn nếu được bên có quyền đồng ý.
- Với hợp đồng song vụ (mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau, nghĩa vụ của bên này là quyền của bên kia): Trong hợp đồng song vụ, khi các bên đã thoả thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong trường hợp các bên không thoả thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau; nếu nghĩa vụ không thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ đó phải được thực hiện trước.
Trong hợp đồng song vụ, khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 417 BLDS năm 2005). Nếu một bên không thực hiện được nghĩa vụ mà các bên đều không có lỗi thì bên không thực hiện được nghĩa vụ không có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trường hợp một bên