loại sản phẩm cụ thể như: thị trường dầu khí, thị trường cà phê, thị trường tiền tệ… Theo cách phân loại này, càng ngày càng có nhiều thị trường sản phẩm, do sản phẩm đáp ứng nhu cầu cuộc sống không ngừng tăng lên cả về số lượng lẫn chủng loại.
Nhìn chung, doanh nghiệp không thể sản xuất cùng một lúc tất cả các loại sản phẩm hàng hoá của một ngành nào đó mà chỉ sản xuất một số mặt hàng chủ yếu. Do đó, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp chỉ hướng sự quan tâm của mình vào từng loại sản phẩm cụ thể để từ đó phát huy được lợi thế của mình với mục đích thu được lợi nhuận tối đa có thể.
- Căn cứ vào phương thức hình thành giá cả thị trường.
Theo cách phân loại này người ta chia thị trường thành 2 loại: thị trường độc quyền và thị trường cạnh tranh.
Thị trường độc quyền là thị trường trong đó giá cả và các quan hệ kinh tế khác biệt bị chi phối rất lớn bởi các nhà độc quyền, thị trường độc quyền có thể là thị trường độc quyền bán hoặc độc quyền mua. Tuy vậy, trên thị trường vẫn tồn tại sự cạnh tranh tương đối giữa người mua và người bán, vẫn có sự hoạt động của cơ chế thị trường.
Thị trường cạnh tranh là thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán và không có một số người nào có khả năng chi phối giá cả và số lượng sản phẩm trên thị trường. Trên thị trường cạnh tranh, các quan hệ kinh tế diễn ra tương đối khách quan.
- Theo mức độ thông tin trên thị trường cạnh tranh.
Theo cách phân loại này, người ta chia thị trường thành 2 loại: thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo được tạo lập bởi các điều kiện:
Có thể bạn quan tâm!
- Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 1
- Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 2
- Xuất Nhập Khẩu Và Phân Phối Xăng Dầu
- Các Chức Năng Chủ Yếu Của Quản Lý Nhà Nước Với Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu .
- Sự Cần Thiết Đổi Mới Quản Lý Nhà Nước Về Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu Ở Việt Nam.
- Bài Học Kinh Nghiệm Cho Việt Nam Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
Sản phẩm hàng hoá đồng loạt.
Phải có số lượng người bán và người mua lớn.
Việc gia nhập và rời bỏ thị trường là hoàn toàn tự do đối với mọi người mua và người bán.
Quy mô kinh doanh hàng hoá đối với mọi chủ thể không lớn so với quy mô thị trường.
Không có sự cấu kết giữa những người mua với nhau, không có sự cấu kết giữa những người bán với nhau, hay sự cấu kết giữa người mua và người bán.
Người mua luôn tối đa tổng lợi ích và người bán luôn tối đa tổng lợi nhuận.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị trường thiếu một trong những điều kiện trên. Mức độ không hoàn hảo ít hay nhiều của thị trường tuỳ thuộc vào việc thị trường đó thiếu ít hay nhiều điều kiện trên.
- Căn cứ vào mức độ xã hội hoá của thị trường.
Dựa vào tiêu chí này người ta chia thị trường ra: thị trường địa phương, thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Mức sống khác nhau của người tiêu dùng và điều kiện kinh doanh khác nhau của người sản xuất khiến cho cung cầu và giá cả đối với một mặt hàng cụ thể cũng khác nhau ở từng thị trường địa phương, trong nước và quốc tế.
Trong qúa trình toàn cầu hoá hiện nay, thị trường quốc tế có ảnh hưởng nhanh chóng và mức độ ảnh hưởng ngày càng sâu đến thị trường trong nước. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tham gia thị trường quốc tế, luôn chịu sự ảnh hưởng của thị trường quốc tế. Đối với các doanh nghiệp này, việc nghiên cứu kỹ luật pháp thông lệ quốc tế và nắm bắt các biến động từ thị trường quốc tế để có những chính sách phù hợp là điều hết sức quan trọng.
- Căn cứ vào tỷ trọng hàng hoá tiêu thụ.
Dựa vào tiêu chí này, có thể chia thị trường ra làm thị trường chính và thị trường phụ. Thị trường chính là thị trường tiêu thụ tuyệt đại đa số hàng hoá đưa ra tiêu thụ của doanh nghiệp. Thị trường chính tập trung nhiều nhà kinh doanh lớn và số lượng người mua đông, các quan hệ kinh tế và giá cả tương đối ổn định, các điều kiện dịch vụ cho mua và bán cũng thuận tiện hơn nhiều so với thị trường phụ.
- Đối với xăng dầu, ngoài những nguyên tắc phân loại thị trường cơ bản trên, ở Việt Nam còn phân loại như:
Theo sản phẩm có thị trường xăng, thị trường dầu…
Theo cách thức phân phối có thị trường bán lẻ, trường bán buôn…
Theo đối tượng khách hàng có thị trường ngành than, thị trường ngành điện, thị trường ngành vận tải, thị trường ngành ngư nghiệp…
Theo vùng miền có thị trường nông thôn, thị trường thành thị, thị trường trên biển, thị trường miền núi…
1.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu
1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu
1.2.1.1 Quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế mà đất nước đặt ra [36;30].
Để thực hiện việc quản lý, Nhà nước sử dụng các công cụ của mình để tác động lên mọi chủ thể của nền kinh tế. Các công cụ quản lý kinh tế chủ yếu của nhà nước bao gồm:[115;30]
Pháp luật
Pháp luật được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm mục tiêu bảo toàn và phát triển xã hội theo các đặc trưng đã định (Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế - đại học KTQD). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 khẳng định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”. Trong thực tế có hai loại văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế là văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
Kế hoạch
Theo nghĩa hẹp kế hoạch là phương án hành động trong tương lai, theo nghĩa rộng là quá trình xây dựng, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai (Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân). Kế hoạch với tính cách là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, bản thân là một hệ thống bao gồm nhiều nội dung hoạt động trong đó
chia thành: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (Đường lối chung tổng quát và giải pháp chủ yếu trong một giai đoạn dài thường là 10 năm), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Cụ thể hóa một bước của chiến lược phát triển kinh tế xã hội), Kế hoạch chung hạn (kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm), Kế hoạch hàng năm.
Cơ chế
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học năm 1998) “cơ chế là cách thức theo đó một quá trình thực hiện”. Tương tự như vậy, các tác giả của cuốn Đại từ điển Tiếng Việt “cho rằng cơ chế là cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”.
Về phương diện khoa học, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến khái niệm “cơ chế”. Trong cuốn Sổ tay về phát triển, thương mại và WTO (NXB Chính trị Quốc gia năm 2004), các nhà khoa học cho rằng “cơ chế là một phương thức, một hệ thống các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho sự vận động của một sự vật hay hiện tượng”. Một quan điểm cụ thể hơn về cơ chế được đề cập trong cuốn “Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới “ (NXB Lao động Xã hội năm 2006). Theo các tác giả của cuốn sách này thì nói đến cơ chế bao giờ cũng gồm hai mặt: bên ngoài (thể hiện ở cách thức tổ chức nên nó) và bên trong (sự tổ chức và hoạt động ngay trong nội tại của sự vật, hiện tượng). Nói cách khác, cơ chế là hệ thống các mối quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tổ chức, hoạt động, cách thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cơ chế là một quá trình, một hệ thống, là tổng thể các yếu tố tạo nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng.
Như vậy, có thể nhận thấy các quan điểm này đều chỉ ra hai yếu tố cơ bản tạo thành cơ chế. Đó là: yếu tố tổ chức (cơ cấu) và yếu tố hoạt động (vận hành). Yếu tố tổ chức đề cập đến các thành viên (chủ thể) tham gia, cách thức hình thành tổ chức (cơ cấu) và cách thức tổ chức hệ thống nội tại. Yếu tố hoạt động thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa các thành viên (sự phân công và hợp tác giữa các thành viên) trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của tổ chức; nguyên tắc vận hành của cơ chế và nội dung hoạt động của nó.
Chính sách
Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu mà Nhà nước sử dụng quản lý nền kinh tế quốc dân. Dưới dạng chung nhất, mỗi chính sách cụ thể là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi chính sách bất kỳ thường gồm hai bộ phận, các mục tiêu cần đạt và các giải pháp cần áp dụng để đạt được mục tiêu. Các chính sách kinh tế chủ yếu là Chính sách cơ cấu kinh tế, Chính sách tài chính, Chính sách tiền tệ, Chính sách giá cả, Chính sách kinh tế đối ngoại, Chính sách thương nhân (chủ thể tham gia kinh doanh), chính sách mặt hàng, chính sách thị trường,vv.
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội, bàn về khái niệm chính sách các nghiên cứu cho thấy có rất nhiều cách phát biểu khác nhau. Với việc hiểu chính sách nói tới ở đây là chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước (hay còn gọi là chính sách công) ta có một số định nghĩa như sau: Một cách định nghĩa đơn giản và dễ nhớ nhất về chính sách là của Thomas R.Dye (1984) “Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm” hay như định nghĩa được đưa ra trong giáo trình hoạch định và phân tích chính sách công của Học việc Hành chính Quốc gia “Chính sách công là những quy định về ứng xử của Nhà nước với những hiện tượng nảy sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới những hình thức khác nhau một cách ổn định nhằm đạt được mục tiêu định hướng”. Theo đó, một chính sách luôn bao gồm hai bộ phân đó là: (i) Mục tiêu chính sách: là những giá trị trong tương lai mà nhà nước theo đuổi; (ii) Thái độ ứng xử: là cách ứng xử của nhà nước trước mục tiêu đã đưa ra.
Trong quá trình nghiên cứu về chính sách các nhà nghiên cứu đưa ra thêm một khái niệm là “Nội hàm chính sách” hay “Hàm ý chính sách” trong đó hàm ý chính sách được hiểu là nội dung của chính sách được Nhà nước gửi vào trong các văn bản ban hành. Qua đó một hàm ý chính sách sẽ được thể hiện trong rất nhiều văn bản liên quan hay một văn bản ban hành có thể bao hàm nhiều hàm ý chính sách.
Với tư cách là công cụ của nhà nước trong quản lý hoạt động kinh tế - xã hội, chính sách có những chức năng sau: (i) Khuyến khích các hoạt động kinh tế xã hội
để mọi thành viên trong xã hội có thể đóng góp sức mình, kìm hãm hay hạn chế các mặt tiêu cực của xã hội; (ii) Đảm bảo cho sự cân đối, ổn định về mọi mặt của xã hội; (iii) Phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường;
(iv) Tạo lập môi trường thích hợp cho các yếu tố của nền kinh tế xã hội vận động như chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường giao lưu và hợp tác kinh tế với thế giới; (v) Dẫn dắt, hỗ trợ các bộ phận của nền kinh tế theo định hướng, phối hợp các hoạt động của các ngành các cấp.
Có nhiều cách thức phân loại chính sách. Tuy nhiên, căn cứ vào đối tượng tác động của chính sách có thể phân chia thành các loại chính sách chung như:
- Chính sách đối ngoại của Nhà nước: chủ trương, chính sách mang tính đối ngoại của quốc gia.
- Chính sách xã hội: chính sách ưu đãi trợ giúp cho một số tầng lớp xã hội nhất định như chính sách xã hội đối với công tác giáo dục ở vùng cao, vùng sâu, chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ.
- Chính sách tiền tệ: chính sách của Nhà nước nhằm điều tiết (tăng hoặc giảm) lượng tiền tệ trong lưu thông để đạt được những mục tiêu nhất định như chống lạm phát, kích thích sản xuất, giảm thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Trong mỗi loại chính sách chung lại tồn tại các chính sách riêng cho từng lĩnh vực, ví dụ: Trong chính sách kinh tế có các chính sách mậu dịch tự do, chính sách bảo hộ thuế quan, chính sách tài chính. Trong chính sách tiền tệ có chính sách thị trường tự do, trong chính sách xã hội có chính sách dân tộc. Tóm lại, có nhiều loại chính sách khác nhau, có chính sách chung, chính sách cụ thể tuỳ thuộc vào nội dung và lĩnh vực kinh tế - xã hội. Chính sách được thực thi khi được thể chế hoá bằng pháp luật. Nói một cách khác, pháp luật là kết quả thể chế hoá đường lối, chính sách, là công cụ để thực thi chính sách.
Chính sách có các loại cấp độ khác nhau, các cấp độ này được phân chia do nguồn ban hành chính sách. Nguồn chính sách có rất nhiều, tất cả các văn bản được cơ quan nhà nước ban hành đều mang hàm ý chính sách của nhà nước. Có thể đưa ra một số nguồn chính sách như sau: (i) Hiến pháp, pháp luật do Quốc hội ban hành;
(ii) Các nghị định, nghị quyết, quyết định…do Quốc hội, chính phủ ban hành; (iii) Các nghị định, thông tư, quyết định… do các bộ, ngành ban hành; (iv) Các cam kết quốc tế; (v) Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển ngành...vv.
Tài sản quốc gia
Theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn lực của đất nước, theo nghĩa hẹp ở đây là nguồn vốn và các phương tiện vật chất – kỹ thuật mà Nhà nước có thể sử dụng để thực hiện nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội của mình (giáo trình QLNNVKT). Tài sản quốc gia bao gồm: Công sở, Ngân sách nhà nước, Tài nguyên thiên nhiên, Công khố, Kết cấu hạ tầng, Doanh nghiệp Nhà nước, Hệ thống thông tin Nhà nước.
Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế.
Các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm:
Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông qua các quyết định dứt khoát có tính chất bắt buộc lên đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế, nhằm thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô trong những tình huống nhất định.Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng phương pháp Hành chính theo hướng tác động về mặt tổ chức, Nhà nước xây dựng và không ngừng hoàn thiện khung pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế yên tâm hoạt động trong môi trường an toàn và trật tự. Nhà nước quy định những thủ tục hành chính buộc tất cả các chủ thể từ cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp đến hộ gia đình và cá nhân phải tuân thủ. Những quy định này là các công cụ nhằm giúp nhà nước cụ thể hóa khung pháp luật và tác động trực tiếp đến thị trường như thủ tục xét duyệt, cấp giấy phép đầu tư, thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa, thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu.v.v.
Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế trong quản lý Nhà nước về kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn, lên đối
tượng quản lý nhà nước về kinh tế, nhằm làm cho họ quan tâm đến hiệu quả cuối cùng của sự hoạt động, từ đó mà tự giác, chủ động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không cần phải có sự tác động thường xuyên của Nhà nước bằng phương pháp hành chính. Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng phương pháp Kinh tế theo các hướng sau: (i) Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, cho từng phân hệ, cho từng cá nhân của hệ thống. (ii) Sử dụng các định mức kinh tế (mức thuế, phí, mức lãi suất ngân hàng v.v...), các biện pháp đòn bẩy, kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân và các doanh nghiệp phát triển sản xuất theo hướng vừa lợi nhà vừa ích nước. (iii) Bằng cách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước và thu hút được tiềm năng của Việt Kiều cũng như các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế, nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Phương pháp giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác. Việc sử dụng phương pháp giáo dục một cách uyển chuyển sẽ tạo ra hiệu quả rộng rãi và lâu dài, bền vững trong xã hội.
1.2.1.2 Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh là một bộ phận của nền kinh tế vì vậy quản lý nhà nước trong hoạt động kinh doanh chính là quản lý Nhà nước về kinh tế. Để quản lý hoạt động kinh doanh, Nhà nước có những công cụ riêng, các công cụ đó tác động lên hoạt động kinh doanh, trong đó một nhóm công cụ quan trọng là các công cụ quản lý hoạt động thương mại nội địa và quốc tế. Các công cụ mà nhà nước sử dụng chủ yếu để quản lý nhóm hoạt động này là công cụ thuế và phi thuế.1
1 Giáo trình Thuế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.