định hiện nay, thì chỉ duy nhất cơ quan cấp phép kinh doanh dịch vụ lữ hành được quyền đề nghị ngân hàng giải tỏa quỹ;
+ Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có ít tiềm lực về mặt tài chính nói riêng, việc buộc doanh nghiệp phải giữ khoản tiền này từ khi gia nhập vào thị trường sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
2.1.4. Điều kiện về cấp thẻ và hành nghề hướng dẫn viên du lịch
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Du lịch 2017, thì “Hướng dẫn du lịch là hoạt động cung cấp thông tin, kết nối dịch vụ, dẫn khách du lịch, hỗ trợ khách du lịch sử dụng các dịch vụ theo chương trình du lịch”. Hướng dẫn viên du lịch đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh lữ hành, họ chính là người nhận nhiệm vụ thay mặt cho công ty lữ hành giám sát, kiểm tra các nhà cung cấp dịch vụ trong chương trình du lịch, hướng dẫn khách du lịch, bảo vệ quyền lợi của khách du lịch trong quá trình diễn ra chương trình. Đối với hoạt động kinh doanh, hướng dẫn viên du lịch là thước đo chính để đánh giá chất lượng dịch vụ lữ hành. Điều kiện về cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch và hành nghề hướng dẫn viên được quy định cụ thể như sau:
2.1.4.1. Điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch
Tại Điều 59 Luật Du lịch 2017 quy định chung về điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch nội địa, hướng dẫn viên du lịch quốc tế và hướng dẫn viên du lịch tại điểm như sau:
- Có quốc tịch Việt Nam, thường trú tại Việt Nam;
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Không mắc bệnh truyền nhiễm, không sử dụng chất ma túy;
Bên cạnh những điều kiện chung về cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch, thì từng đối tượng hướng dẫn sẽ có quy định điều kiện riêng, cụ thể:
1) Đối với hướng dẫn viên du lịch nội địa phải tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành hướng dẫn du lịch; trường hợp tốt nghiệp trung cấp trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch nội địa.
2) Đối với hướng dẫn viên du lịch quốc tế phải tốt nghiệp cao đẳng trở lên chuyên ngành hướng dẫn du lịch; trường hợp tốt nghiệp cao đẳng trở lên chuyên ngành khác phải có chứng chỉ nghiệp vụ hướng dẫn du lịch quốc tế và phải sử dụng thành thạo ngoại ngữ đăng ký hành nghề.
3) Đối với hướng dẫn viên tại điểm phải đạt yêu cầu kiểm tra nghiệp vụ hướng dẫn du lịch tại điểm do cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh tổ chức.
So với Luật Du lịch 2005, thì Luật Du lịch 2017 có thay đổi điều kiện về trình độ văn hóa đối với hướng dẫn viên du lịch quốc tế. Nếu như Luật Du lịch 2005 yêu cầu hướng dẫn viên du lịch quốc tế phải có trình độ cử nhân chuyên ngành hướng dẫn du lịch trở lên [12], thì Luật Du lịch 2017 quy định người có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên đủ điều kiện để được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế và phải sử dụng thành thạo ngoại ngữ đăng ký hành nghề [14].
Quy định mới của Luật Du lịch 2017 theo hướng mở, nhằm tạo điều kiện thu hút nhiều hơn nữa lực lượng lao động được đào tạo nghề tham gia nghề hướng dẫn du lịch, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, của người lao động và thực tiễn công tác đào tạo ở nước ta hiện nay. Tương tự quy định đối với hướng dẫn viên du lịch nội địa, người tốt nghiệp cao đẳng chuyên nghiệp hoặc cao đẳng nghề trở lên đủ điều kiện về trình độ văn hóa để được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế.
Bên cạnh đó, Luật Du lịch 2017 bổ sung thêm đối tượng là hướng dẫn viên du lịch tại điểm, và đối tượng này Luật không quy định yêu cầu về trình độ. Để được cấp thẻ, người đề nghịcấp thẻ hướng dẫn viên du lịch tại điểm, phải đạt yêu cầu kiểm tra về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch tại điểm do cơ quan
chuyên môn về du lịch cấp tỉnh tổ chức. Thẩm quyền cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch tại điểm thuộc trách nhiệm của Sở Du lịch.
2.1.4.2. Điều kiện về hành nghề hướng dẫn viên
Luật Du lịch 2017 bổ sung quy định về điều kiện hành nghề để tạo điều kiện cho hướng dẫn viên được tự do lựa chọn đăng ký với tổ chức quản lý (doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hướng dẫn du lịch hoặc là hội viên của tổ chức xã hội – nghề nghiệp). Cụ thể, tại khoản 3 Điều 58 quy định hướng dẫn viên du lịch chỉ được hành nghề khi đáp ứng cả 3 điều kiện sau:
- Có thẻ hướng dẫn viên du lịch;
- Có hợp đồng lao động với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hướng dẫn du lịch hoặc là hội viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp về hướng dẫn du lịch đối với hướng dẫn viên du lịch quốc tế và hướng dẫn viên du lịch nội địa;
- Có hợp đồng hướng dẫn với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành hoặc văn bản phân công hướng dẫn theo chương trình du lịch; đối với hướng dẫn viên du lịch tại điểm, phải có phân công của tổ chức, cá nhân quản lý khu du lịch, điểm du lịch.
Các quy định về hướng dẫn viên nêu trên, thể hiện tinh thần nâng cao trình độ nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm của hướng dẫn viên du lịch trong hoạt động hướng dẫn. Luật Du lịch 2017 còn quy định 1 Điều (Điều 66) về trách nhiệm quản lý hướng dẫn viên du lịch.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch về số lượng doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai đoạn 2005 – 2018, cả nước có 14.397 Doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 549 doanh nghiệp nhà nước, 5.031 doanh nghiệp cổ phần, 196 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9.836 công ty TNHH và 89 doanh nghiệp tư nhân.
Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai đoạn 2005 - 2018
Loại hình doanh nghiệp | ||||||
Doanh nghiệp nhà nước | Công ty TNHH | Doanh nghiệp cổ phần | Doanh nghiệp tư nhân | Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài | Tổng số | |
2005 | 119 | 222 | 74 | 3 | 10 | 428 |
2006 | 94 | 276 | 119 | 4 | 11 | 504 |
2007 | 85 | 350 | 169 | 4 | 12 | 620 |
2008 | 69 | 389 | 227 | 4 | 12 | 701 |
2009 | 68 | 462 | 249 | 4 | 12 | 795 |
2010 | 58 | 527 | 285 | 5 | 13 | 888 |
2011 | 13 | 621 | 327 | 4 | 15 | 980 |
2012 | 9 | 731 | 371 | 6 | 15 | 1.132 |
2013 | 9 | 845 | 428 | 8 | 15 | 1.305 |
2014 | 8 | 949 | 474 | 9 | 15 | 1.456 |
2015 | 7 | 1.012 | 475 | 10 | 15 | 1.519 |
2016 | 5 | 1.081 | 489 | 10 | 15 | 1.600 |
2017 | 5 | 1.164 | 556 | 11 | 16 | 1.752 |
2018 | 1.207 | 788 | 7 | 20 | 2.022 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm, Điều Kiện Kinh Doanh Dịch Vụ Du Lịch Lữ Hành
- Kinh Doanh Dịch Vụ Du Lịch Lữ Hành Là Ngành Nghề Kinh Doanh Có Điều Kiện
- Thực Trạng Pháp Luật Về Điều Kiện Kinh Doanh Dịch Vụ Du Lịch Lữ Hành Tại Việt Nam
- Số Liệu Kinh Doanh Du Lịch Từ Năm 2014 Đến Năm 2018
- Việc Áp Dụng Pháp Luật Về Điều Kiện Kinh Doanh Du Lịch Lữ Hành Ở Quảng Ninh
- Điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh - 9
Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Ngoài ra, hiện cả nước có hơn 20.000 nghìn hướng dẫn viên du lịch, trong đó có hơn 12.000 hướng dẫn viên quốc tế và 8.000 hướng dẫn viên nội địa. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh lữ hành hiện nay của Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập, làm ảnh hưởng đến môi trường, sức hấp dẫn và thương hiệu của du lịch Việt Nam, như: hiện tượng thao túng thị trường của một số công ty lữ hành nước ngoài; cạnh tranh không lành mạnh; tính liên kết yếu; tình trạng thiếu hướng dẫn viên tại các điểm đến…Hướng dẫn viên chỉ có một lượng rất nhỏ ký hợp đồng làm việc dài hạn ở các công ty lữ hành, còn chủ yếu tự do ký hợp đồng làm việc với các hãng lữ hành theo từng tua, tuyến cụ thể; do đó gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm tra chất lượng hướng dẫn viên của cơ quan có thẩm quyền.
2.1.5. Các cam kết của Việt Nam gia nhập WTO về phát triển dịch vụ du lịch
Du lịch là một ngành đặc biệt, bởi ngành này không chỉ có đóng góp đáng kể cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, mà còn có ý nghĩa quan trọng về mặt văn hóa, xã hội, giúp quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới. Đặc biệt, sự phát triển của ngành du lịch có thể kéo theo sự phát triển của hàng loạt các các ngành dịch vụ khác như dịch vụ vận tải, tài chính, bảo hiểm, vui chơi, giải trí, mua sắm…. Do đó, rất nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển, nơi mà hầu hết các ngành dịch vụ còn chưa phát triển và hầu như không thể xuất khẩu, thì đã rất chú trọng đến xuất khẩu dịch vụ du lịch.
Việt Nam đã có cam kết mở cửa thị trường dịch vụ trong WTO, tuy nhiên mức cam kết được đánh giá là tương đối khiêm tốn, với khá nhiều các hạn chế trong từng khía cạnh. Cụ thể, Việt Nam đã cam kết cho phép các đối tác nước ngoài tham gia cung cấp các dịch vụ khách sạn và nhà hàng dưới các hình thức liên doanh hoặc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuy
nhiên, đối với lĩnh vực dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour du lịch, đầu tư nước ngoài chỉ được chấp nhận dưới hình thức liên doanh với một đối tác Việt Nam, mặc dù phần vốn góp trong đó của doanh nghiệp nước ngoài không bị hạn chế. Thêm vào đó, về nhân sự, các doanh nghiệp này phải sử dụng hướng dẫn viên du lịch là người Việt Nam, các doanh nghiệp này chỉ được phép cung cấp dịch vụ đưa khách du lịch vào Việt Nam. Mặc dù còn không ít các hạn chế, việc mở cửa cho nước ngoài theo các cam kết trong WTO cũng đã mang lại tác động tích cực cho sự phát triển của thị trường du lịch của Việt Nam sau 2007. Nhiều tập đoàn quản lý khách sạn lớn đã đầu tư vào Việt Nam như InterContinential Hotel Group, Wyndham Hotel Group….. Cùng với đó là nhiều doanh nghiệp nước ngoài nhỏ hơn trong các lĩnh vực lữ hành, nhà hàng, cơ sở giải trí, văn hóa, thể thao, hội nghị, triển lãm… tham gia vào thị trường này, cung cấp nhiều loại hình dịch vụ du lịch đa dạng. Tính đến tháng 6/2018, đã có tổng cộng 693 dự án đầu tư nước ngoài vào các dịch vụ lưu trú và ăn uống, với tổng vốn đầu tư đăng ký lên đến gần 13 triệu USD. Dịch vụ lưu trú và ăn uống trở thành một trong những lĩnh vực kinh tế có đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, đứng thứ 4 về tổng lượng vốn đầu tư tính đến tháng 6/2018.
Cạnh tranh từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vừa tạo ra sự sôi động trên thị trường, khuyến khích tăng cầu đồng thời cũng tạo ra áp lực để các doanh nghiệp trong nước phải cải tổ, đổi mới, và phát triển vươn lên để giành lại thị phần. Sau một thời gian, Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hiện các doanh nghiệp trong nước với năng lực cạnh tranh tương đối mạnh (ví dụ SunGroup, Mường Thanh, FLC, Vingroup…. ). Theo số liệu của Tổng Cục Du lịch, số lượng cơ sở lưu trú du lịch của Việt Nam tăng hơn gấp 3 lần trong khoảng 2006-2017, đặc biệt tăng mạnh trong các giai đoạn ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO (các năm 2007-2008) và một số năm gần đây (2016-2017). Tương
tự, số lượng các doanh nghiệp lữ hành quốc tế cũng gia tăng hơn gấp 3 lần trong giai đoạn 2006-2017, từ 504 doanh nghiệp năm 2006 lên 1,752 doanh
nghiệp năm 2017.
Từ khía cạnh tăng cầu, mặc dù số khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam giảm những năm đầu tiên sau gia nhập WTO (2007-2009) do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, theo số số liệu thống kê của Tổng Cục Du lịch thì từ năm 2009 trở đi, lượng khách du lịch vào Việt Nam đã tăng vọt, đặc biệt trong hai năm trở lại đây (2016-2017). Tính chung cho cả giai đoạn này, lượng khách du lịch tăng trung bình hàng năm là khoảng 11%/năm. Ngoài khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa cũng gia tăng nhanh chóng, đạt 74 triệu lượt khách năm 2017.
Thống kê cho thấy ngành du lịch tăng trưởng vượt bậc trong vòng 5 năm qua, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình gấp khoảng 1.5 lần tốc độ tăng trưởng trung bình của GDP trong cùng giai đoạn. Ngành du lịch chiếm 13% tổng GDP, đóng góp 1% vào tăng trưởng GDP năm 2017. Ngành này cũng giúp tạo ra 2,25 triệu việc làm, gấp 6 lần ngành sản xuất ô tô, gấp 4 lần ngành khai khoáng, và gấp 3 lần ngành tài chính. Đặc biệt, cứ mỗi việc làm trong ngành du lịch ước tính lại tạo ra hai việc làm cho các ngành khác. Theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Chỉ số cạnh tranh về du lịch (TTCI) của Việt Nam đã tăng 10 bậc từ vị trí thứ 77/125 năm 2006-2007 lên vị trí thứ 67/136 năm 2017 [17].
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành tại Quảng Ninh
2.2.1. Điều kiện phát triển du lịch của tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, là một trong tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch nổi bật và đặc sắc vào bậc nhất của cả nước với Vịnh Hạ Long hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế