Diện Thừa Kế Theo Quan Hệ Nuôi Dưỡng

chồng được thừa kế của các vợ. Thông tư 60/TATC ngày 22/02/1978 hướng dẫn giải quyết các trường hợp của cán bộ, bộ đội có vợ có chồng trong Nam ra Bắc tập kết lấy vợ lấy chồng khác. Quy định này nhằm giải quyết những vấn đề do lịch sử để lại. Trong hoàn cảnh chiến tranh, vì nhiều lý do khác nhau có nhiều trường hợp gia đình bị thất tán, không có điều kiện liên lạc, tìm kiếm tin tức của người thân để tiến hành những thủ tục chấm dứt cuộc hôn nhân đã tồn tại hoặc do không có tin tức gì nên lầm tưởng người vợ hay người chồng của mình đã chết nên đã kết hôn với người khác. Sau ngày giải phóng họ đã gặp nhau và như vậy tại cùng một thời điểm đã và đang tồn tại nhiều quan hệ hôn nhân của cùng một chủ thể. Vì vậy, tại Thông tư số 81 khẳng định những người thừa kế theo pháp luật có vợ cả, vợ lẽ của người để lại di sản nhằm bảo vệ quyền lợi giữa những người vợ và chồng, loại bỏ tư tưởng phân biệt đối xử giữa vợ cả và vợ lẽ khi chồng còn sống và bảo vệ quyền thừa kế của họ khi người chồng qua đời.

Như vậy, từ sau năm 1945 vợ chồng được xác định là thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Cho đến nay, quan điểm này tiếp tục được kế thừa và phát triển. Hiện nay cơ sở pháp lý của quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng được ghi nhận tại Điều 676, BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014. Việc thừa nhận quyền thừa kế của vợ chồng là hoàn toàn phù hợp với đạo đức, phong tục tập quán và truyền thống dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, vợ chồng được hưởng thừa kế của nhau phải dựa trên sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp cho đến thời điểm mở thừa kế. Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc nhận di sản của nhau mới được pháp luật bảo vệ. Vậy quan hệ hôn nhân hợp pháp là gì? Là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cả hai bên thỏa mãn điều kiện kết hôn theo quy định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức.

Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ 2014 đều quy định về việc nam, nữ khi kết hôn phải đảm bảo một số điều kiện luật định. Ngoài việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn, để được pháp luật công nhận là vợ chồng, nam nữ phải có đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Tại Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tại Điều 11, 12, tại Luật HN&GĐ năm 2014 tại Điều 9. Theo đó, UBND xã phường, thị trấn nơi cư trú của một hoặc hai bên kết hôn là cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, tổ chức đăng ký kết hôn cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho hai bên. Trường hợp các bên ở nước ngoài, hoặc một bên là người nước ngoài sẽ do cơ quan đại diện ngoại giao hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận kết hôn.

Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân hợp pháp, là chứng cứ xác nhận sự tồn tại của quan hệ vợ chồng. Từ thời điểm được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận các bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn được coi là cơ sở pháp lý để các cá nhân yêu cầu giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong quan hệ hôn nhân. Những trường hợp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn được cấp không đúng thẩm quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, đôi nam nữ đó vẫn không được coi là vợ chồng, và không thuộc diện thừa kế của nhau.

Một số các quy định về hôn nhân và gia đình hiện nay đã đã được sửa đổi trong Luật HN&GĐ 2014 về độ tuổi kết hôn “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” [28] và trường hợp:

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn được cấp không đúng thẩm quyền thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết

hôn trước và cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn cũ và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn theo đúng quy định [28, Điều 13].

Mặc dù ngay từ Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định cụ thể về thủ tục kết hôn nhằm chấm dứt các quan hệ hôn nhân không tiến bộ, trái với các nguyên tắc pháp luật của chế độ XHCN nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trên thực tế vẫn còn tồn tại những quan hệ hôn nhân vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn. Vậy những trường hợp này có được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp hay không? Để giải quyết vấn đề này có thời kỳ Nhà nước ta phải thừa nhận những quan hệ hôn nhân thực tế. Tại Nghị quyết số 01/NQ- HĐTP ngày 20/12/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 đã khẳng định việc kết hôn vi phạm điều 8 về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật nếu không trái với các điều 5, 6, 7. Trong trường hợp nếu có một trong hai bên xin ly hôn thì tòa án không xử việc hủy việc kết hôn trái pháp luật theo điều 9 mà xử lý như việc ly hôn theo Điều 40 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Như vậy, những trường hợp hôn nhân thực tế được Tòa án thừa nhận thì vợ và chồng vẫn thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.

Về hôn nhân thực tế ở Việt Nam, Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định: "Nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng" [24]. Tiếp theo đó Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 35/2000/QH-10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/ QH10 và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/ 2000/QH10 để làm cơ sở giải quyết triệt để về

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

vấn đề hôn nhân thực tế. Nội dung những văn bản trên khẳng định rõ quan hệ vợ chồng chưa đăng ký xác định như sau:

- Quan hệ xác lập trước ngày 03/01/1987 thì quan hệ hôn nhân của họ là hợp pháp việc đăng ký kết hôn được khuyến khích chứ không bị hạn chế về thời gian. Quan hệ vợ chồng được công nhận kể từ ngày bắt đầu chung sống như vợ chồng.

Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam - 8

- Đối với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng thì có nghĩa vụ đi đăng ký kết hôn trong vòng hai năm chậm nhất là ngày 01/01/2003 thì mới được công nhận là vợ chồng.

- Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Như vậy, tùy từng trường hợp pháp luật công nhận hôn nhân thực tế và tất nhiên khi được pháp luật công nhận hôn nhân thực tế thì họ sẽ được bảo vệ các quyền lợi trong quan hệ gia đình trong đó có quyền thừa kế.

Trên thực tế trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 phải có nghĩa vụ đi đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ 01/01/2001 đến 01/01/2003 nhưng chưa đi đăng ký kết hôn mà một bên chết trước được giải quyết thế nào? Tại Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 06/04/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định cụ thể nếu cho đến trước ngày 01/01/2003 chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại. Trong trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên chết trước và có tranh chấp về thừa kế trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy từng trường hợp Tòa án xử lý như sau:

- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;

- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.

Việc chấp nhận quan hệ hôn nhân thực tế chỉ là giải pháp mang tính tạm thời. Khi Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời pháp luật không còn thừa nhận tình trạng hôn nhân thực tế nữa. Vì vậy, việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quyền thừa kế vì trên phương diện pháp luật, họ không phải là vợ chồng nên không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Tuy vậy hôn nhân thực tế vẫn còn là một hiện tượng xã hội ngày càng phổ biến. Pháp luật có bảo vệ hay không bảo vệ nó vẫn tồn tại và ngày càng có xu hướng gia tăng. Do vậy đặt ra yêu cầu pháp luật điều chỉnh vấn đề này.

Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 tiếp tục khẳng định để xác lập quan hệ vợ chồng phải thực hiện việc Đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền luật hộ tịch quy định. (Điều 9, HN&GĐ năm 2014).

Một vấn đề cần quan tâm, xem xét khi nghiên cứu diện thừa kế xét theo quan hệ hôn nhân đó là trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác.

Khoản 1, Điều 680, BLDS năm 2005 quy định: "Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản" [26]. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tế đời sống và đạo đức xã hội. Việc chia tài sản chung giữa vợ chồng không làm ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân hợp pháp đang tồn tại giữa họ, vì vậy quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc nhận di sản của nhau vẫn cần được bảo vệ bằng pháp luật.

Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật,

nếu một người chết thì người thừa kế vẫn được thừa kế di sản. Nội dung này được quy định tại khoản 2, Điều 683 BLDS năm 1995 và tiếp tục được ghi nhận tại khoản 2, Điều 680 BLDS năm 2005. Quan hệ vợ chồng chỉ chấm dứt khi đã có bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Vì vậy, khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai đang xin ly hôn mà một bên chết, mà Tòa án mới thụ lý, đang giải quyết, hoặc mới xét xử sơ thẩm mà còn bị kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án cấp phúc thẩm chưa xét xử thì chưa thể có bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân của họ vẫn đang tồn tại. Do đó, nếu vợ hoặc chồng chết trước thì người còn sống vẫn được thừa kế của bên kia. Quy định này phù hợp với thực tế và pháp luật, vì về mặt pháp lý khi chưa có bản án hoặc quyết định của Tòa, trên danh nghĩa họ vẫn là vợ chồng nên hoàn toàn có quyền được hưởng di sản của nhau. Trong trường hợp đã có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án cho ly hôn hoặc công nhận sự thuận tình ly hôn, giữa hai bên không còn tồn tại quan hệ vợ chồng nữa lúc đó nếu một bên chết trước bên còn sống cũng không được quyền thừa kế nữa vì cơ sở làm xuất hiện quyền thừa kế giữa họ là quan hệ hôn nhân đã không còn.

So với BLDS năm 1995, khi quy định việc thừa kế trong trường hợp vợ chồng đang xin ly hôn BLDS năm 2005 đã có sự bổ sung thêm ba chữ: "hoặc đã được". Mặc dù đây chỉ là sự bổ sung rất nhỏ nhưng đã làm cho điều luật trở nên chặt chẽ hơn, đầy đủ hơn.

Trong trường hợp người chồng góa hoặc người vợ góa kết hôn với người khác thì người đó vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật của người chồng hoặc người vợ đã chết. Pháp luật thực dân phong kiến trước đây chỉ không cho phép người vợ góa kết hôn với người khác được hưởng hoa lợi, lợi tức cũng như tài sản của người chồng đã chết. Nhưng pháp luật hiện nay lại có những quy định ngược so với pháp luật của chế độ cũ. Nội dung của khoản

3, Điều 680 BLDS năm 2005 được hiểu là trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, bên còn sống vẫn được hưởng di sản kể cả trong trường hợp đã kết hôn với người khác. Quy định này hoàn toàn phù hợp với xã hội hiện đại. Vì ngày nay, không còn những quan niệm lạc hậu áp đặt người phụ nữ phải trọn đời với một người đàn ông là chồng mình, ngay cả khi người đó đã chết.

Quan hệ hôn nhân là quan hệ khởi nguồn và bắt đầu để tạo ra các gia đình - Các tế bào của xã hội. Vì vậy, quan hệ hôn nhân luôn được pháp luật coi trọng và bảo vệ. Quan hệ hôn nhân được thiết lập trên cơ sở có sự kết hôn giữa nam và nữ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người trong đó có quyền thừa kế. Pháp luật ghi nhận và bảo vệ cho vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau nhằm mục đích duy trì quan hệ tình cảm đồng thời tạo cơ sở để tiếp tục duy trì cuộc sống gia đình.

2.1.3. Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng

Theo quy định của pháp luật con nuôi thuộc diện thừa thừa kế theo pháp luật của bố mẹ nuôi và ngược lại. Bên cạnh đó, con riêng của vợ, của chồng với cha kế, mẹ kế trong một số trường hợp cũng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Những trường hợp nêu trên không bị ràng buộc với nhau bởi quan hệ hôn nhân hay quan hệ huyết thống. Cơ sở để xác lập quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa họ với nhau là quan hệ nuôi dưỡng. Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Khác với quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không phải xác định trên cơ sở huyết thống mà được xác định trên cơ sở pháp lý về nuôi dưỡng nhau. Những quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ thừa kế giữa con nuôi với cha mẹ nuôi lại được xác định như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ. Con nuôi thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cha mẹ nuôi. Quy định này đã có

ngay trong pháp luật thời kỳ phong kiến và được tiếp tục duy trì cho đến ngày nay. Thừa kế cho con nuôi được quy định rất chặt chẽ trong Luật Hồng Đức.Nguyên nhân là ngoài lí do hai vợ chồng nhận con nuôi vì không có con; các gia đình khá giả thường nhận thêm con nuôi là con của bạn bè thân thiết, anh chị em để tạo sự thân thiết, khuyếch trương thanh thế… Từ cơ sở đó nên quy định để con nuôi được chia tài sản với những người con khác là có giấy tờ nhận con nuôi,và trong đó có ghi rõ là sẽ chia tài sản cho. Ngay cả trong trường hợp này thì con nuôi cũng chỉ được chia bằng nửa phần con đẻ.Việc chia bằng nửa con đẻ lại phải phụ thuộc vào mẹ nuôi là vợ cả hay vợ thứ… Người con nuôi được công nhận quyền thừa kế “hai mang” (điều 380, 381). Ở nhà mẹ đẻ thì họ được hưởng thừa bằng 4/5 những người con khác (theo lệnh ra năm Quang Thuận thứ IV). Về khoản thừa tự thì người con nuôi chỉ được lo việc thừa tự cho cha mẹ nuôi nếu không có con đẻ và ở với cha mẹ nuôi từ bé. Thời kỳ thực dân, theo quy định của Dân luật Trung kỳ và Dân luật

Bắc Kỳ người con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ. Người con nuôi không chỉ có quyền thừa kế theo luật của cha mẹ nuôi mà còn có quyền thừa kế theo pháp luật của cha mẹ đẻ và của những người khác cùng huyết thống.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật đều quy định con nuôi và cha mẹ nuôi được thừa kế theo pháp luật của nhau, con nuôi được coi như con đẻ và xếp cùng hàng thừa kế với con đẻ. Thông tư 594 khẳng định con nuôi và bố mẹ nuôi được thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất. Nội dung này được tiếp tục ghi nhận tại Thông tư số 81. Thông tư 81 xác định con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau. Nhưng thông tư này lại hạn chế quyền thừa kế của con nuôi đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh chị em ruột. Người đang là con nuôi của người khác (hợp pháp hay thực tế) không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bố mẹ và anh chị em ruột của họ. Ngược lại, cha đẻ, mẹ đẻ của người đang làm con nuôi cũng không thuộc diện

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 25/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí