quảng cáo, xúc tiến du lịch, giới thiệu hình ảnh của địa phương, con người, của cụm di tích với những nét độc đáo, đặc sắc và hấp dẫn để tạo ra sức thu hút khách du lịch. Tuyên truyền và quảng cáo trên nhiều loại phương tiện khác nhau, thông qua các hình thức nghe, nhìn, đọc và cảm quan. Ví dụ: Kiến trúc, khuôn viên đền chùa được thể hiện bằng hình ảnh đẹp, sống động trên các tờ gấp, đĩa CD, phim, ảnh trên truyền hình, trên mạng Internet… Lời văn cổ động, súc tích và ấn tượng trên các trang báo, tạp chí, trên các cuốn sách và các ấn phẩm khác. Hay giọng nói truyền cảm lúc trầm, lúc thanh thuyết minh về cụm di tích trên Đài Phát thanh của xã, sẽ thu hút và kích thích nhu cầu về du lịch của con người. Các món ăn, đồ uống được trưng bày trong tủ kính, được trình diễn cách thức chế biến nơi đông người để cho du khách được xem, được nếm thử (cảm quan) sẽ tạo ra những ấn tượng khó quên đối với du khách. Chủ động phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí để xây dựng tư liệu quảng bá cho cụm di tích như: Xây dựng chuyên trang đặc biệt trên Website. Website giúp các thông tin du lịch, các sản phẩm và dịch vụ du lịch đến với du khách một cách nhanh chóng mà không có giới hạn về thời gian, không gian hay đối tượng.
Để thực hiện được điều này, rất cần sự tăng cường, quan tâm nhiều hơn nữa của Bộ, của Sở Văn hóa, cùng sự đồng hành của các doanh nghiệp du lịch, góp phần thu hút du khách, tạo ấn tượng đối với khách du lịch không chỉ bằng những giá trị quý báu của cụm di tích, bằng phong tục tập quán đặc sắc mà còn bằng chất lượng dịch vụ, sự thân thiện hiếu khách của người dân.
Bên cạnh đó, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục cho người dân biết giá trị lịch sử văn hóa, tôn vinh giá trị người đi biển bằng cách kể về sự tích Quan Lớn Thống đã đánh giặc ngoại xâm, đánh đuổi hải tặc ra sao và tuyên truyền về ý nghĩa của cụm di tích để nâng cao ý thức tự giác, khơi dậy lòng tự hào, hướng người dân chủ động bảo tồn, gìn giữ cụm di tích. Ngoài việc phổ biến
các quy định, cần thiết phải giải thích và cụ thể hóa, thể chế hóa các quy định chung của Nhà nước và của địa phương. Các văn bản hướng dẫn phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành. Ngoài ra, cần phải làm rõ và gắn lợi ích của người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn; biểu dương, có chính sách, chế độ cho cá nhân, gia đình và tập thể có công sức giữ gìn, trùng tu, tôn tạo di tích. Đây cũng là cách thức thu hút đông đảo người dân tham gia gìn giữ cụm di tích. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, việc vận động, tuyên truyền để nâng cao ý thức tự giác của người dân cần gắn với cuộc vận động xã hội hóa trong công tác bảo tồn. Chỉ khi người dân có ý thức trong việc bảo tồn thì mọi khó khăn đều có thể được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Người dân sẽ không tiếc công sức, thời gian mà họ còn có thể đóng góp tiền bạc, của cải để phục vụ cho các hoạt động bảo tồn di tích.
3.3.2.3. Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động tôn tạo di tích
Việc giữ gìn, trùng tu, tôn tạo di tích và mở rộng lễ hội nhằm thu hút khách tham quan cần số kinh phí không nhỏ. Vì thế, cần có kiến nghị với cấp có thẩm quyền điều chỉnh về tài chính để có kinh phí cho các hoạt động này. Hiện nay, kinh phí tu sửa, trùng tu, tôn tạo di tích hoàn toàn do nhân dân địa phương tự nguyện đóng góp nên chính quyền địa phương cùng nhân dân rất mong các cơ quan có trách nhiệm ở cấp tỉnh quan tâm, xem xét đầu tư kinh
phí cho việc bảo tồn, tôn tạo di tích, thực hiện phương châm “Trung ương và địa phương, Nhà nước và nhân dân cùng làm”19.
Ngoài ra, chính quyền xã cũng cần tích cực hơn trong kế hoạch kêu gọi sự hỗ trợ tự nguyện của dân trong làng và con em xa xứ góp sức tạo nguồn để phục vụ cho việc gìn giữ cụm di tích, cùng xây dựng và phát triển làng xã.
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Quan Hệ Giữa Cụm Di Tích Và Không Gian Văn Hóa Làng
- Vấn Đề Quản Lý, Tổ Chức Hướng Dẫn/ Phục Vụ Khách Tham Quan
- Nâng Cao Nhận Thức Của Ban Quản Lý Di Tích Trong Việc Giữ Gìn, Trùng Tu, Tôn Tạo Cụm Di Tích
- Đền, chùa trong không gian văn hóa làng Phấn Vũ xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình - 13
- Chúc Văn ''cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Quốc. Tuế Thứ.... Niên, Thất Nguyệt, Sơ Thập Nhật...thời.
- Bản Dịch Sắc Phong Đức Nam Hải Đại Càn Thánh Mẫu
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
19 Thông tư của Bộ văn hóa số 3011-VH/TT ngày 28 tháng 10 năm 1985 về phân cấp quản lý bảo quản và tu bổ di tích lịch sử và văn hóa
3.3.2.4. Tổ chức mở rộng lễ hội
Lễ hội là cây cầu nối quá khứ với hiện tại, là nơi để người dân gửi gắm những ước nguyện về cuộc sống và trên hết là giá trị văn hóa của cha ông truyền lại tới hôm nay. Chính vì vậy, việc mở rộng tạo sự phong phú trong lễ hội tại cụm di tích là điều vô cùng cần thiết. Điều đáng mừng là phần lễ vẫn được giữ nguyên, tuy nhiên có phần giản lược hơn so với trước. Phần hội còn đơn giản, ít trò chơi, trong khi đó một số trò chơi đã bị mai một như chèo bơi, vật truyền thống. Xưa, các cụ đã tổng kết một câu để nói về sự thành công hay thất bại của một lễ hội truyền thống: “Vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội”. "Tả tơi xem hội" nghĩa là người xem hội phải vui hết mức; không được như vậy tức là hội nhạt. Vì thế, ngay ở trong cấu trúc của lễ hội, bên cạnh những lễ nghi nghiêm ngặt, những trò diễn/diễn xướng thì bao giờ cũng có vô số những trò vui khác (từ trò chơi dân gian, đến văn nghệ dân gian, đến thi đấu thể thao và văn hóa ẩm thực). Nay, quan điểm ấy vẫn hoàn toàn đúng và nó còn trở thành nguyên lý quan trọng nhất dẫn đến sự thành công toàn diện của một lễ hội. Tuy nhiên, khách du lịch, đặc biệt là giới trẻ sẽ không thể thỏa mãn nhu cầu của mình nếu lễ hội chỉ có những trò chơi dân gian hoặc chỉ có những tiết mục văn nghệ, thể thao đơn giản. Vì thế, cần tổ chức nhiều trò chơi hơn nữa, tạo sự phong phú, đa dạng trong lễ hội, chỉ có như thế mới thu hút được đông đảo du khách tham gia.
Để làm được điều đó cần dựa vào truyền thuyết, văn hóa làng xưa qua lời kể của các cụ ông, lão bà để nghiên cứu, chắt lọc nét đẹp của lễ hội với trò chơi văn hóa truyền thống, có kế hoạch trước mắt và lâu dài để khôi phục trò chơi dân gian kết hợp trò chơi hiện đại tạo sự phong phú của lễ hội. Năm 2006, được sự giúp đỡ của trường Năng khiếu Thể dục thể thao tỉnh Thái Bình, địa phương đã mở nhiều lớp năng khiếu vật cho thiếu niên
nhằm khôi phục lại môn vật cổ truyền. Vào dịp Tết, dịp hội đã mở các giải vật giành cho lứa tuổi thanh thiếu niên, thu hút các đô vật từ trường năng khiếu Thể dục thể thao Tỉnh và các lò vật từ huyện Vũ Thư, Tiền Hải về tham gia thi đấu, được đông đảo người dân đồng tình hưởng ứng.
Việc tổ chức lễ hội không chỉ tập trung kinh phí, trí tuệ, nhân lực vào công tác tuyên truyền, PR, tiếp thị, chạy tài trợ và quảng bá cho lễ hội trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trên internet mà còn cần có kiến thức về lễ hội, có năng lực thẩm định nghệ thuật và tuân thủ quy trình của khoa học tổ chức sự kiện (từ khâu nghiên cứu, đánh giá hiện trạng về tiềm năng, thế mạnh, cơ hội, thách thức, những điểm yếu… đến việc thảo luận để tìm ra ý tưởng độc đáo, đến khâu quản lý, điều hành và những kỹ năng truyền thông). Mặt khác, phải chủ động trong công tác truyền thông, quảng bá, tiếp thị để lễ hội được truyền bá rộng rãi và tăng cường khả năng thu hút tài lực từ các nguồn khác nhau.
3.3.2.5. Tổ chức phục vụ khách tham quan cụm di tích
Để có được lượng khách đông đảo đến tham quan và tìm hiểu về cụm di tích, chính quyền địa phương và Ban quản lý đã có các hoạt động trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử, tuyên truyền cho nhân dân địa phương hiểu rõ giá trị lịch sử, nghệ thuật của các di tích, đồng thời cùng ngành chức năng giữ gìn và bảo vệ các di tích. Tại các điểm di tích, cũng đã thực hiện tốt công tác vệ sinh, chăm sóc cây xanh, phục vụ chu đáo khách tham quan. Tuy nhiên, cụm di tích thiên về du lịch tâm linh, chủ yếu là người dân địa phương và những người con xa quê trở về để cúng bái, cầu khấn. Vì vậy, cần xây dựng kế hoạch quản lý, khai thác sử dụng hiệu quả sản phẩm du lịch gắn với đầu tư xây dựng nơi lưu trú đạt tiêu chuẩn để thu hút các nguồn khách khác nhau. Đồng thời, chú trọng đào tạo đội ngũ làm công tác du lịch có phong cách chuyên nghiệp, có kiến thức lịch sử, văn hóa, giao tiếp. Người trông coi tại cụm di tích cần hiểu
biết hơn nữa về cụm di tích. Tổ chức các chương trình vui chơi, giải trí lành mạnh gắn với giới thiệu, quảng bá hình ảnh, giá trị cụm di tích.
Tại các điểm tham quan này, ngoài việc tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa, giá trị thẩm mỹ của cụm di tích, cần để du khách trải nghiệm, tìm hiểu về văn hóa của cộng đồng ngư dân ven biển thông qua các hình thức tham quan độc đáo, mới lạ, hấp dẫn như chèo thuyền, nghe hát chèo, nghe hò và thưởng thức đặc sản của nơi đây: Canh don, canh cá khoai, gỏi nhệch… Đồng thời cần thiết kế các tour du lịch như: Bắt đầu tham quan từ cụm di tích đến biển Thụy Xuân, đến cồn Đen (thuộc xã Thái Đô, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, cách Thị trấn Diêm Điền 15 km về phía Nam, nằm trong khu vực dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 2/12/2004. Đến nay khung cảnh tự nhiên trên cồn vẫn hoang sơ, với vùng cảnh quan trải dài bao gồm các bãi cát mịn và khu vực nuôi ngao). Hoặc gắn kết các tour du lịch biển với các điểm du lịch sinh thái, văn hóa, làng nghề để tăng số lượng khách đến tham quan. Ngoài ra, có thể thiết kế tour tham quan các đền chùa: Bắt đầu từ đền chùa Phấn Vũ đến đền Chòi hay còn gọi là đền Dinh, đền Tam Toà (xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) được biết đến là chốn linh thiêng, có rất nhiều du khách trong và ngoài tỉnh ghé thăm. Tiếp đó, đến đình An Cố (một trong 3 ngôi đình cổ kính nhất ở các huyện ven biển duyên hải Bắc bộ, thuộc xã Thụy An, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).
3.3.2.6. Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa cơ sở, cùng chung tay xây dựng "Làng văn hóa"
Thiết chế văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy phong trào văn hóa phát triển. Hiện nay, làng Phấn Vũ đã xây dựng nhà văn hóa - nơi quy tụ những hoạt động văn hóa và tinh thần đoàn kết trong thời hiện đại của làng, nơi hội họp, truyền tải, phổ biến chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân. Qua đó, người dân không chỉ được tham gia sinh hoạt, hưởng thụ văn hóa, mà còn nắm bắt được các kiến thức, thông tin kinh tế - xã hội của địa phương; hình thành các phong trào thi đua sôi nổi. Tuy nhiên, phải đầu tư hơn nữa vào việc nâng cấp cơ sở vật chất cùng với việc tổ chức các đội văn nghệ, các hội, các câu lạc bộ, cùng trưng cầu dân ý các vấn đề về xã hôi, các biện pháp bảo vệ di tích, cùng nhau xây dựng làng văn hóa, góp phần tích cực hoàn thành tiêu chí 16 - tiêu chí về văn hóa trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới tại địa phương.
Để làm tốt những giải pháp trên, các cấp, các ban ngành, đặc biệt là Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch cần chú trọng quan tâm hơn nữa đến cụm di tích. Bên cạnh đó, vấn đề then chốt là cần nâng cao nhận thức, ý thức tự giác lưu giữ giá trị di tích của mỗi người dân. Người dân địa phương đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Họ là kho tàng “văn hóa dân gian”, là nơi lưu giữ lại những lễ hội truyền thống đặc trưng, là phần hồn, cái ẩn sau kiến trúc để tăng thêm phần hấp dẫn của đền chùa Phấn Vũ. Vì vậy các cơ quan quản lí cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức người dân, có chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, được toàn dân và các cấp, các ngành tham gia, hưởng ứng. Khi hội tụ đủ sức mạnh tổng hợp ấy công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa sẽ đạt được nhiều thành tựu mới, góp phần nâng cao đời sống văn hóa nhân dân, cùng nhau xây dựng làng văn hóa, phấn đấu đạt được 19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Tiểu kết
Theo dòng chảy của thời gian, đền, chùa làng Phấn Vũ đã bị xuống cấp. Với sự nỗ lực đóng góp của người dân, cụm di tích đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Cụm di tích là nơi diễn ra các sinh hoạt lễ hội truyền thống, là môi trường nuôi dưỡng nếp sống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của địa phương. Hàng năm vào những ngày mồng một, ngày rằm, ngày lễ hội, nhân dân trong xã và khách thập phương đều về đền Mẫu, đền Quan Lớn Thống, chùa Phấn Vũ thắp nén nhang tưởng nhớ, đi lễ, thăm quan cảnh đẹp của xã. Nhưng lễ hội chưa thực sự phong phú để thu hút đông đảo lượng khách đến tham quan. Để duy trì và bảo tồn được những nét tốt đẹp, lành mạnh trong lễ hội và khắc phục, bài trừ những hành động có xu hướng lợi dụng sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo cần có sự định hướng và quản lý của chính quyền địa phương. Do vậy, rất mong các cơ quan ban ngành hữu trách quan tâm đầu tư hơn nữa cả về kinh phí lẫn vấn đề tổ chức lễ hội, tổ chức phục vụ khách tham quan để cụm di tích được nhiều người biết đến, để truyền thống văn hóa không bị mai một theo thời gian.
Bên cạnh đó, cần có định hướng và quản lý đối với các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, tạo sự thúc đẩy cho phát triển kinh tế - xã hội nhưng vẫn đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người dân theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ sự quan tâm của các cấp chính quyền dành cho cụm di tích sẽ góp phần giáo dục cho nhân dân làng Phấn Vũ nói riêng, xã Thụy Xuân nói chung truyền thống đoàn kết một lòng xây dựng quê hương đất nước giàu mạnh, cùng nuôi dưỡng và phát huy truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", cùng phát huy những chuẩn mực đạo đức, truyền đạt và tác động trực tiếp đến nhận thức của thế hệ trẻ. Từ đó, nâng cao dân trí, ý thức tự giác trong việc bảo vệ, giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa trên quê hương giàu truyền thống cách mạng.
KẾT LUẬN
Làng Phấn Vũ thuộc xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình có vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện tự nhiên khá phong phú. Vì vậy, người Việt sớm chọn nơi đây để lập làng lập xóm, sinh cơ lập nghiệp. Không chỉ mang sắc thái của vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi đây còn chứa đựng cả những yếu tố biển, là nền tảng xây dựng nên một truyền thống văn hóa đa dạng, phong phú nhưng cũng rất thống nhất. Đó chính là sự quy tụ của nền văn hóa dân tộc, trong đó văn hóa làng với đền - chùa - đình làng là một điển hình.
Đền, chùa, đình làng cùng cây đa, bến nước mang biểu tượng của thôn quê Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với người dân và tồn tại cùng thăng trầm lịch sử của quê hương, đất nước. Cụm di tích đền chùa làng Phấn Vũ được hình thành và đồng hành tồn tại với quá trình lập đất, giữ làng, chứa đựng trong đó nhiều giá trị văn hóa cổ truyền, được hun đúc, chắt lọc bởi tâm hồn ông cha, biểu hiện tinh hoa trí tuệ, tài năng qua từng thế hệ, đồng thời gửi gắm vào đó những tình cảm thiết tha, sâu nặng với quê hương, làng xóm. Đây chính là nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh, nơi tưởng niệm các vị nhân thần, nhiên thần – những người có công với dân, với nước, được dân làng tôn thờ làm thành hoàng bản cảnh với lòng tôn kính, ngưỡng mộ. Cụm di tích là nơi linh thiêng nhưng cũng rất gần gũi với con người. Trong dịp lễ hội, các trò chơi dân gian được tổ chức, mọi người háo hức, sôi nổi tham gia cùng tiếng hò reo cổ vũ. Đó là điều kiện để cư dân trong và ngoài địa bàn giao lưu cộng cảm, cùng tìm hiểu về văn hóa, phong tục của mỗi làng, mỗi thôn, mỗi địa phương. Những nét đẹp của lễ hội đã tạo nên sức hấp dẫn, cuốn hút mỗi người vào lối sống lành mạnh, đặc biệt đối với lớp trẻ, với thế hệ tương lai. Sức mạnh của nền văn hóa truyền thống như một liều kháng giúp họ vượt qua những cám dỗ từ những mặt trái của xã hội.