Mô hình trong dạy học lịch sử là một loại đồ dùng trực quan có tính quy ước, mô phỏng lại sự vật với các đặc điểm nổi bật của sự vật đó. So với các loại hình đồ dùng trực quan khác như tranh ảnh hay lược đồ, mô hình có ưu điểm hơn là có thể mô tả được các sự vật hiện tượng trong không gian ba chiều, thể hiện được vị trí trong không gian của chúng. Mô hình được đắp nổi như hình ảnh của các vật thật nhưng có kích thước to hoặc nhỏ hơn. Nhiều mô hình có thể tháo lắp dễ dàng để tiện nghiên cứu, quan sát từng bộ phận. Ngoài các mô hình tĩnh, còn có các mô hình động để diễn tả một quá trình diễn biến của một hiện tượng nào đó. Chính vì vậy, so với việc HS chỉ có thể quan sát, nhận xét như khi sử dụng đồ dùng trực quan tranh ảnh, bản đồ, bảng biểu thống kê thì việc HS có thể quan sát một vật thật, cầm nắm, tháo lắp để tìm tòi nghiên cứu sẽ thu hút sự chú ý, phát huy tính tích cực trong việc học lịch sử hơn rất nhiều.
Với xu thế liên tục đổi mới PPDH cho phù hợp với tinh hình phát triển của thời đại trong nhà trường phổ thông hiện nay hơn bao giờ hết giáo dục có vai trò quan trọng với việc phát triển kinh tế- xã hội, vì thế từ đại hội VI của Đảng các nghị quyết của ban chấp hành Trung ương 2 khoá VIII đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục- đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học” chính vì lẽ đó, trong những năm gần đây có những thay đổi mạnh mẽ theo hướng áp dụng các phương pháp tiên tiến, phương tiện hiện đại vào quá trình DH, đảm bảo điều kiện thời gian tự học và tự nghiên cứu cho HS, phù hợp với từng môn học. Tuy nhiên đó là những kết quả bước đầu, nhưng bên cạnh đó cũng có những hạn chế cần khắc phục. Việc đổi mới PPDH là chặng đường dài với nhiều khó khăn và thử thách trong đó xóa bỏ cách dạy truyền thống thầy đọc trò chép đã lạc hậu yêu cầu là phải đổi mới. Tuy có nhiều thay đổi SGK những người thầy vẫn giữ tư tưởng cũ là cách dạy một chiều, điều này đòi hỏi ngành giáo dục
cần phải nghiên cứu và vận dụng các phương pháp tích cực trong DH. Chúng ta cần khẳng định đây là quá trình lâu dài không thể nóng vội nhưng lại là công việc cấp thiết phải làm ngay ở mức độ tốt nhất có thể tùy theo điều kiện cụ thể và nâng lực không chờ đợi hội đủ điều kiện mới tiến hành. Đổi mới PPDH là yêu cầu bắt buộc đối với ngành giáo dục nói chung và GV nói riêng, song trên thực tế việc đổi mới này chưa được quan tâm đúng mức. GV được tham dự các lớp về đổi mới PPDH. Song nhưng khi vể áp dụng chỉ mang tính “hình thức”, thiếu sáng tạo, hiệu quả chưa cao.
Chính vì vậy, tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Thiết kế và sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử” làm đề tài khoá luận của mình với mong muốn đóng góp cho lí luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
PPDH Lịch sử đã được rất nhiều các nhà Sư phạm Lịch sử nghiên cứu, đưa vào áp dụng trong thực tiễn giảng dạy. Một số ý kiến về phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử như:
“Trong giảng dạy Lịch sử cần giúp HS hiểu rằng muốn nhận thức bất cứ một sự kiện nào cũng phải xem xét trong quá trình phát sinh, phát triển và những thay đổi có liên quan đến điều kiện cụ thể của sự kiện đó. Đó là nguyên tắc của tư duy khoa học, xem xét mọi hiện tượng như những cái đang phát triển, theo quy luật khác quan. Để hình thành và phát triển lên quan điểm lịch sử, trong dạy học, chúng ta cần lưu ý HS nắm vững những gia đoạn, các thời kì lịch sử cụ thể của sự phát triển xã hội loài người, một thời kì lịch sử này khác với thời kì lịch sử khác. Ví dụ thời kì phong trào cách mạng Việt Nam trước năm 1930 khác với sau năm 1930 ở những điểm rất cụ thể như lãnh đạo, mục tiêu, lực lượng, kết quả… cho nên HS nắm vững kiến thức cụ thể, không nên diễn đạt chung chung bằng các hình dung từ “lạc hậu”, “tiến bộ”, “tàn
bạo”,… Mặt khác, qua các khoá trình lịch sử, cần làm cho HS thấy rõ tính chất tiến bộ, sự phát triển đi lên hợp quy luật, sự thống nhất đầy mâu thuẫn của lịch sử, tính kế thừa trong sự phát triển (trong lòng chế độ cũ đang hình thành mầm mống của chế độ mới), chế độ mới tiếp tục, tiếp nhận những tinh hoa của chế độ cũ…”
“Dù bằng phương pháp dạy học nào, người GV vẫn phải đảm bảo tính cụ thể, tính hình ảnh của sự kiện lịch sử, coi đó là cơ sở nền tảng để giúp HS hoạt động đọc lập trong nhận thức lịch sử. Điều này xuất phát từ đặc trưng của khoa học lịch sử. Lịch sử là những sự việc rất cụ thể đã xảy ra trong xã hội loài người. Đó là kết quả hoạt động của con người theo đuổi những mục đích nhất định, trong không gian và thời gian xác định, trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy trong dạy học Lịch sử, việc tạo ra ở HS những hình ảnh chân thực, cụ thể và sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, việc khôi phục lại chân dung của các nhân vật lịch sử và những hoạt động của họ trong những điều kiện lịch sử cụ thể là nhiệm vụ hàng đầu.
Lịch sử tồn tại khác quan, là những sự việc, hiện tượng, các mối quan hệ có thật, đã từng xảy ra trong quá khứ, không phải là tư duy tưởng tượng hay phán đoán ra các sự kiện lịch sử đó. Vì vậy, để giúp HS biết được hiện thực lịch sử, nhất thiết họ phải được thông tin về quá khứ lịch sử với tính cụ thể, chân thực của nó. Muốn vậy, trước hết phải nhờ đến lời nói sinh động giàu hình ảnh của GV và các phượng tiện trực quan để có thể biểu tượng về quá khứ. Chỉ trên cơ sở đó, HS rút ra nhận xét, đánh giá, tự mình tìm hiểu bản chất của sự vật hiện tượng” [1, 7-8].
“Dạy học lịch sử cần phải sử dụng đồ dùng trực quan, nhưng không phải sử dụng bất cứ đồ dùng trực quan nào. Sử dụng tuỳ tiện sẽ không đem lại hiệu quả sư phạm mà còn ảnh hưởng không tốt đến chất lượng dạy học. Vì vậy,
cần chú ý những nguyên tắc chọn đồ dùng trực quan được sử dụng trong dạy học lịch sử.
Nội dung lịch sử, yêu cầu giáo dục- giáo dưỡng của bài học quy định việc sử dụng những loại đồ dùng trực quan tương ứng và thích hợp. Bài này sử dụng bản đồ, bài khác lại sử dụng tranh ảnh hay sa bàn, mô hình. Đôi khi trong một bài giảng lại kết hợp sử dụng một vài loại đồ dùng trực quan khác nhau. Thật là tẻ nhạt nếu trong bất cứ bài học lịch sử nào, GV cũng chỉ sử dụng một vài đồ dùng trực quan có sẵn” [2, 3].
“Khi giảng dạy và học tập trên lớp, việc sử dụng đồ dùng trực quan là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ công tác dạy học. Nó kết hợp chặt chẽ với các khâu dạy, học khác, không chiếm quá nhiều thời gian, không làm loãng trọng tâm bài học, không làm cho HS mất tập trung sự chú ý vào bài học. Khi sử dụng đồ dùng trực quan, GV hướng dẫn HS cách quan sát, nghiên cứu làm cho các em hiểu rằng đồ dùng trực quan không chỉ là những hình vẽ, tranh ảnh, mô hình giản đơn mà là sự thể hiện, sự phản ánh những sự kiện lịch sử của đời sống xã hội đã qua. HS biết rút từ đồ dùng trực quan những điểm cơ bản, chủ yếu để minh hoạ, bổ sung cho kiến thức, tìm được những mối kiên hệ bản chất của sự kiện hiện tượng. Vì vậy, khi sử dụng bất cứ đồ dùng trực quan nào ở trên lớp, GV cần phải kết hợp với việc sử dụng tài liệu lịch sử với trình bày miệng: miêu tả, tường thuật, nêu đặc điểm,… Tài liệu lịch sử là nội dung kiến thức của đồ dùng trực quan. Lời nói sinh động, giàu hình ảnh làm cho HS thu thập kiến thức qua đồ dùng trực quan cụ thể hơn, hấp dẫn hơn, nắm vững khái niệm sâu sắc hơn. Đồ dùng trực quan đóng góp phần đáng kể vào quá trình tư duy, cho nên động viên hoạt động nhận thức của học sinh bằng quan sát, nhận xét, bằng hỏi và trả lời để ngày càng đi sâu hơn vào bản chất sự kiện”[2, 23]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về biện pháp thiết kế và sử dụng Mô hình trong dạy học Lịch sử còn chưa được đề cập đưa sâu vào nghiên cứu cũng như chưa
có ví dụ thực tiễn khái quát và thực nghiệm mô hình đối với HS trong việc học Lịch sử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học lịch sử đặc biệt là biện pháp thiết kế và sử dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Xác định đối tượng nghiên cứu nói trên, đề tài không nghiên cứu toàn bộ các đồ dùng trực quan mà tập trung nghiên cứu sâu lí luận về việc thiết kế và sử dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
Phạm vi thực nghiệm sư phạm tại trường THCS Nguyễn Phong Sắc (44 Đại La, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội).
4. Mục đích ngiên cứu
Nghiên cứu những phương pháp, quy trình thiết kế và sửa dụng mô hình trực quan để tổ chức cho HS tự lực nghiên cứu tài liệu thông qua các giờ dạy trên lớp, tổ chức kiểm tra đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức của HS thông qua việc sử dụng mô hình trực quan nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài khoá luận thực hiện 4 nhiệm vụ
- Nghiên cứu những lí luận và thực tiễn giáo dục phổ thông về việc thiết kế và sử dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
- Thiết kế mô hình trực quan nhằm phát huy tính tích cực của HS.
- Xác định những yêu cầu chung, đề xuất biện pháp thiết kế và sử dụng mô hình trực quan cho GV và HS.
- Thực nghiệm sư phạm trường THCS Nguyễn Phong Sắc nhằm kiểm tra tính khả thi của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn về thiết kế và sử dụng mô hình trực quan. Tiến hành thiết kế xây dựng, thực nghiệm sử dụng và khảo sát để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
7. Giả thiết khoa học
Nếu thiết kế và sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, phát huy tính tích cực sáng tạo cho HS theo yêu cầu, mục tiêu đào tạo.
8. Đóng góp của khoá luận
Thiết kế và sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của GV và HS trong việc dạy và học tập môn lịch sử.
Đồng thời, khoá luận còn là nội dung làm tài liệu nghiên cứu và học tập của GV và HS nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người dạy và học môn lịch sử.
9. Cấu trúc bài khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo nội dung khoá luận gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử.
Chương 2: Thiết kế mô hình trong dạy học Lịch sử (qua ví dụ Mô hình Địa đạo Củ Chi).
Chương 3: Sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử (qua ví dụ Mô hình Địa đạo Củ Chi).
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG MÔ HÌNH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Xuất phát từ đặc điểm tri thức lịch sử
Kiến thức lịch sử không lặp lại về cả thời gian và không gian. Chính điều này đặt ra yêu cầu khi trình bày một sự kiện, hiện tượng nào đó trong lịch sử phải xem xét tính cụ thể.
Kiến thức lịch sử mang tính cụ thể cũng là đặc điểm nổi bật của kiến thức lịch sử. Chính đặc điểm này đòi hỏi việc trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể, sinh động bao nhiêu lại càng hấp dẫn bấy nhiêu. Do vậy nếu chỉ thực hiện hoạt động dạy học chỉ bằng hình thức chữ viết thì rất khó để HS có thể hình dung ra các sự kiện, nhân vật trong lịch sử. Chính vì vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan sinh động, xây dựng mô hình, sa bàn trong hoạt động dạy học có ý nghĩa rất lớn đối với nhận thức của HS trong bài học cũng như đối với các sự kiện, nhân vật trong quá khứ.
1.1.2. Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS
Hứng thú học tập lịch sử của HS được hình thành do tác động của nhiều yếu tố trong đó có sự tác động quan trọng nhất từ nội dung và PPDH. Để tạo hứng thú học tập lịch sử cho HS cần tiến hành trên tất cả các mặt nội dung và PPDH. Một trong những phương pháp tạo được hứng thú đối với HS trong việc dạy học lịch sử được sử dụng một cách hiệu quả đó chính là việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động giúp HS có thể hình dung cụ thể nhất về những sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ, tạo hứng thú cho HS từ đó giúp HS có thể nhanh chóng tiếp thu bài, nhớ bài lâu hơn, kích thích các
em tích cực, say mê học tập để tiếp thu những kiến thức mới trong môn lịch sử.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của việc học tập, tiếp thu kiến thức lịch sử của học sinh THCS. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như có những tìm tòi trong tư duy, sáng tạo.
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc tiếp cận, làm việc với đồ dung trực quan chúng ta thấy rõ những điều kiện khác biệt cơ bản trong quá trình dạy và học [3].
PPDH PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH | |
1. Cung cấp nhiều sự kiện được xem là tiêu chí cho chất lượng giáo dục. 2. GV là nguồn kiến thức duy nhất, phần lớn thời gian trên lớp dành cho GV thuyết trình, giảng giải, HS thụ động tiếp thu kiến thức thông qua nghe và ghi lại lời của giáo viên. 3. HS chỉ làm việc một mình trên lớp, ở nhà hoặc với GV khi kiểm tra. 4. Nguồn kiến thức thu nhận được của HS rất hạn hẹp, thường giới | 1. Cung cấp những kiến thức cơ bản được lựa chọn phù hợp với yêu cầu, trình độ của HS, nhằm mục tiêu đào tạo. 2. Ngoài bài giảng của GV ở trên lớp, HS được tiếp thu nhiều nguồn kiến thức khác, vốn kiến thức đã học, kiến thức của bạn bè, SGK, tài liệu tham khảo, thực tế cuộc sống. 3. HS ngoài việc tự nghiên cứu còn trao đổi, thảo luận với các bạn trong tổ, trong lớp, trao đổi ngoài giờ. HS đề xuất ý |
Có thể bạn quan tâm!