Dạy học lớp 5 theo chương trình Tiểu học mới - 2


c) Đọc

- Biết đọc các loại văn bản hành chính, khoa học, báo chí, văn học..., thể hiện được tình cảm, thái độ của tác giả, giọng điệu nhân vật.

- Đọc thầm có tốc độ nhanh hơn lớp 3.

- Biết xác định đại ý, chia đoạn văn bản, nhận ra mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện, tình tiết, nhận xét về hình ảnh, nhân vật trong bài đọc có giá trị văn chương.

- Biết sử dụng từ điển học sinh. Biết ghi chép thông tin đã học. Thuộc 10 bài (2 là văn xuôi).

c) Đọc

- Tốc độ tối thiểu khoảng 120 tiếng / phút.

- Đọc thành tiếng và đọc thầm: Biết đọc phù hợp với các loại văn bản; đọc màn kịch, vở kịch ngắn, giọng phù hợp với nhân vật, tình huống; đọc diễn cảm bài thơ đã thuộc, đoạn văn đã học. Đọc thầm nhanh hơn lớp 4.

- Đọc hiểu: Biết tìm đại ý, tóm tắt bài, chia đoạn, rút ra dàn ý. Nhận ra MQH giữa các nhân vật, sự kiện. Bước đầu biết đánh giá nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ trong bài có giá trị văn chương. Hiểu kí hiệu, các dạng viết tắt, các số liệu trên sơ đồ, biểu đồ, bảng hiệu...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 386 trang tài liệu này.

- Kĩ năng phụ: Biết dùng từ điển; ghi chép thông tin; thuộc một số bài văn vần, đoạn văn xuôi.


Dạy học lớp 5 theo chương trình Tiểu học mới - 2

d) Viết

- Viết đúng chính tả, tốc độ 80 chữ/ 15 phút. Chữ viết rõ, viết hoa đúng. Biết tự phát hiện, sửa lỗi chính tả. Có thói quen, biết lập sổ tay chính tả, hệ thống hoá các quy tắc chính tả.

- Biết lập dàn ý bài văn, rút ra dàn ý từ đoạn văn cho sẵn, chuyển dàn ý thành đoạn văn.

- Biết viết thư, điền vào một số giấy tờ in sẵn, làm các bài văn kể chuyện, miêu tả đồ vật, cây cối, con vật. Nắm vững cách viết mở bài, kết bài và các đoạn văn.


d) Viết

- Viết chính tả: tốc độ khoảng 90 chữ / 15 phút, chữ viết rõ, trình bày đúng. Biết lập sổ tay chính tả; hệ thống hoá các quy tắc chính tả đã học. Biết viết tắt một số từ, cụm từ thông dụng. Có ý thức khắc phục lỗi chính tả phương ngữ.

- Viết bài văn: Chuyển đoạn nói sang đoạn viết và ngược lại. Biết lập dàn ý và chuyển dàn ý thành bài. Biết tả cảnh, tả người; kể một câu chuyện đã làm, đã chứng kiến; viết đơn từ, biên bản. Tự phát hiện, sửa một số lỗi trong bài văn.


2. Kiến thức tiếng Việt, văn học (có tiết riêng)

- Từ vựng: Học thêm 700 từ. Nắm nghĩa một số yếu tố Hán Việt, một số thành ngữ, tục ngữ; nghĩa bóng của một số từ trong TPVH. Nắm được cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ.

- Ngữ pháp và NP văn bản: Nắm được khái niệm DT, ĐT, TT; Các kiểu câu đơn, thành phần của câu đơn; các kiểu câu phục vụ những MĐ nói chuyên biệt; kết cấu 3 phần của văn bản.

- Văn học: Làm quen với một số TP, trích đoạn TPVH dân gian, truyện, thơ, kịch, văn miêu tả của các tác giả trong và ngoài nước; Nắm được khái niệm cốt truyện, nhân vật, đề tài.

2) Kiến thức tiếng Việt và văn học (có tiết riêng)

- Từ vựng: Mở rộng vốn từ theo chủ điểm. Biết nghĩa của một số yếu tố Hán Việt thông dụng, một số thành ngữ. Hiểu, bước đầu vận dụng được kiến thức về nghĩa của từ (từ đồng nghĩa, trái nghĩa, chuyển nghĩa, đồng âm) để hiểu văn bản văn học và thực hành nói, viết. Biết vận dụng KT đã học về biện pháp tu từ (so sánh, nhân hoá) vào hiểu VB văn học, thực hành nói, viết.

- Ngữ pháp: Nắm được đặc điểm, bước đầu biết sử dụng đại từ, quan hệ từ. Nắm được cấu tạo của câu ghép, biết đặt câu ghép. Hệ thống hoá kiến thức về câu, dấu câu.

- Văn bản: Biết đặt đầu đề văn bản. Biết cách liên kết các câu và đoạn văn trong văn bản.

- Văn học: Có hiểu biết về cách gieo vần. Làm quen với một số trích đoạn kịch.


II. Về quan điểm biên soạn SGK


1. Sự kế thừa, phát triển những ưu điểm về quan điểm biên soạn của SGK cũ

HV tự nghiên cứu SGK mới; nhớ lại SGK cũ (vừa thay) và những hiểu biết, kinh nghiệm đã có để thấy được quan điểm biên soạn SGK lớp 5 mới kế thừa, phát triển những gì trong SGK cũ.


2. Quan điểm biên soạn SGK lớp 5 chương trình mới

2.1. Quan điểm dạy giao tiếp

“Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc... nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết, cộng tác... giữa các thành viên trong xã hội… Hoạt động giao tiếp gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã (phát thông tin). Trong ngôn ngữ, mỗi hành

vi đều có thể được thực hiện bằng hai hình thức: khẩu ngữ (nghe, nói), bút ngữ (đọc, viết)” - SGV Tiếng Việt 5, tập 1, tr.6.


2.1.1. Vì sao phải dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp?

- Dạy học theo quan điểm giao tiếp là xu hướng phổ biến trong các tài liệu dạy tiếng mẹ đẻ cũng như dạy ngoại ngữ ở các nước tiên tiến hiện nay. Khác với xu hướng dạy học theo cấu trúc, nó có tác dụng rõ rệt trong việc hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ.

- Dạy tiếng Việt theo quan điểm tổ chức hoạt động giao tiếp giúp thực hiện nhanh nhất, vững chắc nhất mục tiêu của chương trình mới - hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết).

2.1.2. Dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp như thế nào?

Việc dạy tiếng Việt theo quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện về cả phương pháp và nội dung dạy học.

a) Về nội dung dạy học

- Để tổ chức hoạt động giao tiếp, SGK tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc thông qua các phân môn. Các bài tập rèn luyện kĩ năng có tính tình huống, hấp dẫn, sinh động, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên, kích thích HS hào hứng tham gia, bộc lộ bản thân, phát triển các kĩ năng giao tiếp.

- Để HS có những kĩ năng giao tiếp cần thiết của con người trong xã hội hiện đại, SGK xây dựng hệ thống bài tập dạy HS các kĩ năng làm việc và giao tiếp cộng đồng như: các nghi thức lời nói, các kĩ năng viết thư, làm đơn, điền vào giấy tờ in sẵn, phát biểu và điều khiển cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tập thể, làm báo cáo, viết biên bản, lập chương trình hoạt động...

b) Về phương pháp dạy học

Các kĩ năng nói trên được dạy thông qua việc tổ chức các hoạt động giao tiếp cho HS. Khi tổ chức cho học sinh hoạt động, GV chú ý đến tất cả HS, làm cho em nào cũng được nói ra, trao đổi, trình bày suy nghĩ riêng để nâng cao năng lực diễn đạt, tư duy, để tự tin, bạo dạn khi cần trình bày ý kiến trước tập thể, đám đông.

Quan hệ đơn phương, một chiều (GV hỏi HS) trong dạy học được thay bằng quan hệ đa phương, bằng trao đổi, đối thoại nhiều chiều: GV hỏi HS, HS hỏi GV, HS đối thoại với nhau. GV đóng vai người tổ chức, hướng dẫn hoạt động của HS, là cố vấn, trọng tài trong các cuộc trao đổi. GV không làm thay, nói thay HS.


2.2. Quan điểm tích hợp

Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, một tiết học hay một bài tập nhiều mảng kiến thức và kĩ năng liên quan với nhau. Biên soạn SGK theo quan điểm tích hợp sẽ tiết kiệm thời gian học tập cho người học và tăng cường hiệu quả giáo dục.

Tích hợp là xu hướng chung của chương trình các môn học trên thế giới, bắt nguồn từ quan niệm: việc phân chia kiến thức thành các môn học là hoàn toàn khác với kinh nghiệm sống thực tế của HS bởi thế giới thực không bị chia cắt thành những phần riêng rẽ. Do vậy, để việc học tập phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, chương trình môn học phải phản ánh thế giới thực, sao cho HS có thể thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa cuộc sống và việc học tập trong nhà trường.

2.2.1. Vì sao phải tích hợp?

Bộ SGK Tiếng Việt nằm trong hệ thống SGK cấp tiểu học, cũng như các môn học khác, phải xây dựng theo quan điểm tích hợp vì những lý do sau:

a) Yêu cầu của xã hội hiện đại - con người mới phải linh hoạt, năng động, có khả năng thích ứng, có năng lực tổng hợp. Phải linh hoạt, năng động mới có khả năng thích ứng. Muốn thích ứng thì năng lực mà con người có phải đa dạng, tổng hợp - đặc biệt cần đa dạng, tổng hợp với tiểu học là cấp học nền tảng.

b) Chương trình Tiếng Việt tiểu học có mục tiêu tích hợp (đáp ứng đòi hỏi trên): “Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài; Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN”.

c) Thời lượng học có hạn, lượng kiến thức ngày càng gia tăng. Tích hợp là cho học sinh ăn một món ăn tổng hợp nên sẽ tiết kiệm, hiệu quả cao.

Do những ưu điểm trên, tích hợp hợp lý, tự nhiên nhiều nội dung kiến thức, nhiều yêu cầu rèn luyện kĩ năng trong xây dựng chương trình một môn học, trong biên soạn một cuốn sách, một bộ SGK đã là xu hướng chung của giáo dục tất cả các nước.

2.2.2. SGK Tiếng Việt lớp 5 thể hiện quan điểm tích hợp như thế nào?

a) Tích hợp theo chiều ngang - tích hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội, tích hợp các phân môn của môn Tiếng Việt (Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn) với nhau.

- Dạy Tiếng Việt theo quan điểm tích hợp không hiểu thuần tuý là dạy Việt ngữ học (ngữ pháp), từ vựng, tu từ mà dạy kết hợp những kiến thức văn học, những tác phẩm hoặc trích đoạn tác phẩm văn học có tác dụng giáo dục nhân cách, trang bị những kiến thức đời sống, giúp HS có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, môi trường sống, về giới, những vấn đề của dân tộc, loài người phù hợp với lứa tuổi… Từ đó, biết yêu thiên nhiên, sống gần gũi, hoà hợp với thiên nhiên; có ý thức trau dồi nam tính, nữ tính, yêu Tổ Quốc, yêu hoà bình, chống bệnh tật, đói nghèo, lạc hậu…

- Tính tích hợp trong nội dung dạy học còn thể hiện ở chỗ sách chú trọng dạy cho HS những kĩ năng đời sống: biết giao tiếp lịch sự (chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị…); biết tự thuật về mình, viết tin nhắn, viết thư, gọi điện, làm đơn, đọc bản tin, đọc thông báo, đọc thời khoá biểu, lập thời gian biểu, lập danh sách học sinh, làm báo cáo thống kê, lập biên bản, lập chương trình hoạt động…

Bộ SGK Tiếng Việt 5 thực hiện mục tiêu tích hợp thông qua hệ thống các chủ điểm học tập, các ngữ liệu dạy đọc, viết, nghe, nói gần gũi, thiết thực với đời sống của trẻ, giúp trẻ tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt, có hiểu biết về mình, về thế giới xung quanh. Phân tích đặc điểm của hệ thống câu hỏi và bài tập, hệ thống ngữ liệu phân bố theo một số chủ điểm trong sách Tiếng Việt 5 tập 1 và 2 (như Cánh chim hoà bình, Con người với thiên nhiên, Giữ lấy màu xanh, Nam và nữ, Những chủ nhân tương lai), có thể thấy sách đã thể hiện rõ tính tích hợp ngang trong mục đích dạy tiếng kết hợp với cung cấp cho HS kiến thức văn học, những hiểu biết về đời sống và những kĩ năng cần thiết.

- Tính tích hợp của sách còn được thể hiện ở việc tổ chức hệ thống sách và tổ chức nội dung giảng dạy các kiến thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Cụ thể:

+ Nội dung của 3 quyển sách được sử dụng trong giai đoạn trước Tiếng Việt 5, Truyện đọc 5, Vở bài tập Tiếng Việt 5 nay được tập hợp trong quyển Tiếng Việt 5.

+ Các phân môn gắn bó với nhau xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Ngữ liệu được tuyển chọn đề dạy các tiết Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn đều gắn với chủ điểm. Các văn bản đọc được khai thác, trở thành ngữ liệu của các bài Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Phân môn Tập làm văn gắn bó chặt chẽ với các phân môn khác, đặc biệt là Tập đọc. Ví dụ: Gắn với chủ điểm Việt Nam - Tổ quốc em (Tiếng Việt lớp 5, tập 1), HS được làm quen với thể loại văn tả cảnh, bắt đầu bằng vật liệu mẫu là bài văn miêu tả Quang cảnh làng mạc ngày mùa (bài Tập đọc). Sau đó, HS luyện tập viết báo cáo thống kê dựa theo vật liệu mẫu là bài đọc Nghìn năm văn hiến - thống kê số tiến sĩ và trạng nguyên trong 185 khoa thi của các triều vua Việt Nam.

+ Các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước. Ví dụ, văn bản Thầy cúng đi bệnh viện (chủ điểm Vì hạnh phúc con người, Tiếng Việt 5, tập 1, tr.158), được dùng làm ngữ liệu dạy đọc (giúp HS có ý thức bài trừ mê tín dị đoan, tin tưởng vào bệnh viện và khoa học) - sẽ là căn cứ để các em rèn kĩ năng làm biên bản một vụ việc theo đề bài : Giả sử em là bác sĩ trực phiên cụ ún trốn viện (bài Thầy cúng đi bệnh viện). Dựa theo mẫu biên bản vừa đọc ở bài tập 1, em hãy lập biên bản về việc này (tr.163). Bài tham khảo Biên bản về việc Mèo Vằn ăn hối lộ của nhà Chuột (tr.161, 162) - văn bản thú vị do một học sinh tiểu học viết - được xem là mẫu để trẻ lập được biên bản theo đề bài đã nêu.

b) Tích hợp theo chiều dọc - tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó, trong đó: kiến thức và kĩ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc học dưới, nhưng cao hơn, sâu hơn kiến thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc học dưới.

- Tính tích hợp dọc trong bộ SGK Tiếng Việt tiểu học được thể hiện trước hết ở hệ thống các chủ điểm (là khung của các cuốn sách). Mỗi chủ điểm ứng với một đơn vị học. Xét về nội dung, hệ thống chủ điểm của lớp sau phong phú, mở rộng và nâng cao hơn lớp trước. ở lớp 5 (và lớp 4), mỗi chủ điểm được dạy trong 3 tuần và chỉ xuất hiện 1 lần. Những chủ điểm ở lớp 5 so với các lớp dưới đã thực sự là một tầm cao hơn.

- Tính tích hợp dọc của bộ sách còn thể hiện ở sự đòi hỏi cao dần về mức độ qua mỗi lớp. Ví dụ: từ yêu cầu đọc trơn nâng lên đọc thầm, đọc lướt nắm ý; từ yêu cầu hiểu ý hiển ngôn của văn bản nâng lên yêu cầu hiểu ý hàm ẩn của văn bản phù hợp với lứa tuổi; từ yêu cầu giao tiếp đơn giản (tập nói lời chào hỏi, xin lỗi, cảm ơn, mời nhờ, yêu cầu, đề

nghị, gọi điện thoại, viết nhắn tin… (ở 1, lớp 2) nâng lên yêu cầu giao tiếp chính thức: tập điều khiển cuộc họp; làm đơn,… (ở lớp 3). Những kĩ năng học sinh lớp 5 được rèn luyện như: luyện tập thuyết trình, tranh luận; làm biên bản; viết báo cáo thống kê, lập chương trình hoạt động đã là những yêu cầu cao hơn so với các lớp dưới.


2.3. Quan điểm tích cực hoá hoạt động học tập của HS

Mục đích của dạy học là tạo ra được sự tự phát triển toàn diện của học sinh. Con đường đạt đến hiệu quả tự phát triển là sự vận động tự thân của mỗi chủ thể. Mọi phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức dạy - học của thầy và trò cần nhằm thúc đẩy hoạt động trí tuệ tự thân đó. Đặc điểm căn bản của đổi mới PPDH vì vậy là: chuyển từ phương pháp truyền thụ, chú trọng thuyết trình, giảng giải sang phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học. Theo phương pháp này, GV đóng vai trò tổ chức hoạt động của HS; HS là chủ thể của quá trình học tập. Hoạt động học tập giúp các em được bộc lộ mình và được phát triển.

Theo phương pháp tích cực hoá hoạt động học tập của HS, SGK và SGV Tiếng Việt 5 sẽ biên soạn theo hướng mới: SGK không trình bày kiến thức như là những kết quả có sẵn mà xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt; SGV hướng dẫn thầy, cô cách thức cụ thể - các phương pháp, biện pháp - tổ chức các hoạt động này.


Hoạt động 2 :

Tìm hiểu nội dung dạy học trong SGK Tiếng Việtlớp 5

Nhiệm vụ

1. Nghiên cứu tài liệu.

2. Nghe giảng viên thuyết trình, gợi vấn đề.

3. Suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, trả lời các câu sau:

3.1. SGK Tiếng Việt lớp 5 cũ (vừa thay) và SGK Tiếng Việt lớp 5 mới có điểm gì giống nhau và khác nhau về cấu trúc các đơn vị học, về các phân môn?

3.2. Cấu trúc đơn vị học theo chủ điểm trong SGK Tiếng Việt lớp 5 mới có tác dụng

gì?

3.3. Các phân môn trong SGK Tiếng Việt lớp 5 mới thể hiện chủ điểm như thế nào?

3.4. So với SGK Tiếng Việt ở các lớp dưới, nội dung SGK Tiếng Việt lớp 5 mới có gì mới?

* Nêu thêm câu hỏi của anh, chị (nếu có) để giảng viên cùng cả lớp giải đáp.

(Gắn việc trả lời câu hỏi với những ví dụ minh hoạ từ các bài học, tập hợp bài học hoặc chủ điểm, thể hiện sự nắm vững SGK Tiếng Việt lớp 5 mới; nắm vững những điều đang trình bày).


Thông tin phản hồi (cho hoạt động 2)

I. Về cấu trúc các đơn vị học, các phân môn của SGK lớp 5 cũ (HV tự nghiên cứu SGK, nhớ lại hiểu biết, kinh nghiệm đã có).

Gợi ý:

- SGK Tiếng Việt lớp 5 cũ cấu trúc theo kiểu nào? Theo thể loại văn học, văn bản (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, truyện trung đại, thơ trung đại, truyện hiện đại, thơ hiện đại, kịch, chèo, tuồng,…); theo lịch sử văn học (văn học dân gian, văn học trung đại, văn học cận đại, văn học hiện đại,…); theo lĩnh vực ngôn ngữ học và đơn vị ngôn ngữ (từ và cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp từ, câu và các thành phần câu, các kiểu câu, nghĩa của câu…) hay theo hệ thống chủ điểm?

- Nói tên các chủ điểm trong SGK Tiếng Việt lớp 5 cũ. Nêu nhận xét.

- Nói tên các phân môn trong SGK Tiếng Việt lớp 5 mới. Tên phân môn nào trong SGK Tiếng Việt lớp 5 mới khác với SGK Tiếng Việt lớp 5 cũ? Điều đó thể hiện sự khác biệt gì về quan niệm của các tác giả biên soạn SGK mới? Các phân môn trong sách được phân bố trong 1 tuần học theo trình tự như thế nào, với thời lượng như thế nào?


II. Về đặc điểm nội dung của SGK Tiếng Việt lớp 5 mới


1. Cấu trúc SGK Tiếng Việt lớp 5

SGK Tiếng Việt lớp 5 (hai tập) gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị ứng với một chủ điểm, học trong 3 tuần (riêng chủ điểm Vì hạnh phúc con người học trong 4 tuần). Các chủ điểm ở lớp 5 có nội dung xoay quanh những vấn đề lớn đặt ra cho đất nước, dân tộc và loài người. Tên 10 chủ điểm đó là: Việt Nam - Tổ quốc em, Cánh chim hoà bình, Con người với thiên nhiên, Giữ lấy màu xanh, Vì hạnh phúc con người, Người công dân, Vì

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/11/2023