sẽ được miễn phí cho năm tiếp theo. Điều này hoàn toàn hấp dẫn và kích thích khách hàng sử dụng thẻ hơn là việc chỉ có khách hàng hạng bạch kim và kim cương mới được miễn phí. Cần xác định rằng khách hàng tiêu dùng cho nhu cầu của họ chứ không phải tiêu dùng để được tăng hạn TTD.
Phí sử dụng thẻ
Ngoài tiền lãi, khách hàng sử dụng TTD còn phải thanh toán cho ngân hàng nhiều chi phí khác như phí phát hành, thường niên, phí rút tiền mặt, phí chuyển đổi ngoại tệ,…
Bảng 2.8: So sánh một số chi phí sử dụng TTD của Vietinbank và VPbank
TTD VIETINBANK
| TTD VPBANK
| |
-Phí phát hành mới hoặc phí thanh lý thẻ | - Từ 75.000 đến 300.000 tùy loại thẻ và hạng thẻ | - Không thu phí trừ thẻ World MasterCard và World Lady MasterCard phí 1 triệu đồng |
-Phí thường niên | -Từ 90 nghìn đến 1 triệu tùy loại thẻ và hạng thẻ, ngoại trừ thẻ Visa Signature là 5 triệu | -Từ 150 nghìn đến 899 nghìn tùy loại thẻ, ngoại trừ thẻ World MasterCard và World Lady MasterCard phí 1,5 triệu đồng |
-Phí trả chậm | - Từ 3% đến 6% tùy vào thời gian trể hạn -Tối thiểu 200.000 đồng | -5% (TT: 149 nghìn; TĐ: 999 nghìn) - World MasterCard và World Lady MasterCard miễn phí |
-Phí rút tiền mặt | -3,64% số tiền giao dịch -Tối thiểu 50.000 đồng | -4% giá trị giao dịch -Tối thiểu 100 nghìn đồng -Riêng thẻ Mobifone – Vpbank Classic MasterCard miễn phí và VPbank No.1 MasterCard không tính phí tại ATM của Vpbank |
-Phí chuyển đổi tiền tệ | - 1,82% giá trị giao dịch | -2,5% đến 3% giá trị giao dịch |
-Phí giao dịch ngoại tệ | -0,91% giá trị giao dịch |
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sở hữu và sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Mức Độ Phổ Cập Ttd Tại Một Số Quốc Gia (Số Liệu 2011)
- Hoạt Động Thẻ Tại Nh Tmcp Công Thương Việt Nam.
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quyết Định Sở Hữu Và Sử Dụng Thẻ Tín Dụng Của Khách Hàng Qua Một Số Nghiên Cứu Trước .
- Phân Tích, Lựa Chọn Các Nhân Tố Và Đề Xuất Giả Thiết Kiểm Định.
- Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quyết Định Sử Dụng Ttd Của Khách Hàng.
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp từ website https://www.vietinbank.vn và https://www.vpbank.com.vn
Qua bảng so sánh trên, có thể thấy rằng đối với các loại phí cố định hai ngân hàng tương đương nhau ngoại trừ một số sản phẩm đăc biệt như Visa Signature của Vietinbank hay World MasterCard và World Lady MasterCard của VPbank là có mức phí cao đột biến. Tuy nhiên, về các loại phí tính trên giá trị giao dịch thì mức
phí của VPbank có phần cao hơn Vietinbank, nhưng bù lại VPbank miễn phí cho khách hàng một số loại sản phẩm trong khi Vietinbank không miễn phí cho khách hàng.
Lãi suất
Sau vấn đề ưu đãi thì lãi suất cũng là mối quan tâm hàng đầu của người sử dụng TTD. Trong khi Vietinbank áp dụng mức lãi suất chung là 18%/năm cho tất cả các sản phẩm của mình thì VPbank phân chia từng mức lãi suất ứng với từng nhóm khách hàng cụ thể và đặc biệt là đều cao hơn đáng kể so với lãi suất của Vietinbank khi đạt mức 28,68% - 38,28%/năm (áp dụng từ ngày 25/04/2018). Tuy nhiên cần lưu ý một điều rằng, để mở TTD Vietinbank khách hàng phải có tài sản đảm bảo dưới dạng thế chấp ngoại trừ trường hợp đặc biệt là cán bộ nhà nước đã có thâm niên làm việc ít nhất 2 năm liên tục. Trong khi đó, điều kiện mở thẻ của VPbank không cần tài sản đảm bảo, chỉ cần có thu nhập từ 4,5 – 15 triệu/tháng tùy loại thẻ (cao hơn Vietinbank đôi chút). Hơn nữa, với TTD khách hàng chỉ phải trả lãi khi không thanh toán khi đến hạn, vì vậy nếu đảm bảo rằng đủ khả năng chi trả các giao dịch đã thực hiện thì khách hàng có thể thoải mái sử dụng thẻ phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình mà không cần quan tâm đến lãi suất.
Tóm tắt chương 2:
Qua chương 2, chúng ta có cái nhìn khái quát về TTD, những rủi ro và lợi ích mà TTD mang lại cho các chủ thể tham gia cũng như thực trạng thị trường thẻ nói chung và thị trường TTD nói riêng tại VN trong đó Vietinbank là một trong những NH dẫn đầu. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy được vị thế cạnh tranh của Vietinbank so với các đối thủ của mình. Tuy là một ngân hàng lớn nhưng Vietinbank còn rất nhiều việc phải làm để nâng cao vị thế của mình, chiếm lĩnh thị trường TTD VN còn non trẻ.
CHƯƠNG 3
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THẺ TÍN DỤNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Tổng quan cơ sở lý thuyết về thẻ tín dụng
3.1.1. Giới thiệu về thẻ tín dụng
3.1.1.1. Khái niệm
Thẻ tín dụng là một hình thức thay thế cho việc thanh toán trực tiếp. Hình thức thanh toán này được thực hiện dựa trên uy tín. Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi mua hàng. Thay vào đó, ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho người bán và chủ thẻ sẽ thanh toán lại sau cho ngân hàng khoản giao dịch. TTD cho phép khách hàng "trả dần" số tiền thanh toán trong tài khoản. Chủ thẻ không phải thanh toán toàn bộ số dư trên bảng sao kê giao dịch hàng tháng. Tuy nhiên, chủ thẻ phải trả khoản thanh toán tối thiểu trước ngày đáo hạn đã ghi rò trên bảng sao kê. TTD khác với thẻ ghi nợ vì tiền không bị trừ trực tiếp vào tài khoản tiền gửi của chủ thẻ ngay sau mỗi lần mua hàng hoặc rút tiền mặt (NHNN,2017).
Thẻ tín dụng được phát hành sau khi nhà cung cấp dịch vụ tín dụng duyệt chấp thuận tài khoản thẻ, sau đó chủ thẻ có thể sử dụng nó để mua sắm tại các điểm bán hàng chấp nhận loại thẻ này.
Thông thường, khi sử dụng TTD ngân hàngsẽ cấp cho chủ thẻ một hạn mức nhất định dựa trên cơ sở đánh giá và thẩm định uy tín tín dụng, mức lương hàng tháng của chủ thẻ hoặc số tiền ký quỹ hay tài sản khác mà chủ thẻ dùng để đảm bảo tại NH. Với đặc điểm là “chi tiêu trước, trả tiền sau”, TTD hỗ trợ đắc lực cho chủ thẻ thực hiện nhanh chóng các giao dịch thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ hay trên các website thương mại điện tử. Định kỳ đến một ngày nhất định theo quy định của từng ngân hàng, ngân hàngsẽ gửi một bảng sao kê chi tiết các khoản chi tiêu trong kỳ trước đó của chủ TTD và yêu cầu chủ thẻ phải thanh toán.Chủ thẻ có thể chọn thanh toán số tiền trước thời hạn ghi trong thông báo, khi đó chủ thẻ không phải trả lãi. Nếu không, chủ thẻ có thể lựa chọn trả số tiền tối thiểu thông thường là 5% dư nợ trên sao kê, phần còn lại có thể trả từ từ và sẽ bị tính lãi theo quy định của ngân hàng.
3.1.1.2. Lịch sử hình thành
Cuối những năm 1800, các nhà buôn và người tiêu dùng Mỹ đã dùng khái niệm uy tín, tín nhiệm để trao đổi hàng hóavới nhau như sử dụng một số loại xu hay tấm thẻ thay cho tiền mặt. Việc này đã đặt nền móng cho thẻ ngân hàng nói chung và TTD nói riêng ngày nay.
Đến năm 1946, thẻ ngân hàng đầu tiên xuất hiện mang tên "Charg-It", do John Biggins ở Brooklyn (New York) nghĩ ra. Khi khách hàng mua sắm, hóa đơn sẽ được chuyển đến NH của Biggins, NH trả tiền cho nhà kinh doanh và sau đó khách hàng trả tiền lại cho NH. Tuy nhiên, loại thẻ này chỉ sử dụng trong phạm vi địa phương và dành riêng cho các khách hàng của ngân hàng.
Năm 1949, tiền thân của TTD ra đời. Một ngày, người đàn ông tên Frank McNamara đi ăn tốitại một nhà hàng ở New York. Đến khi thanh toán, Frank nhận ra mình không mang theo tiền và phải gọi vợ đến trả. Sau bữa tối đó, ông nghĩ ra một cách thanh toàn không dùng tiền mặt. Cùng với đối tác, ông lập ra Công ty Diners Club, phát hành loại thẻ chuyên dùng để thanh toán tại các nhà hàng. Chỉ trong năm đầu tiên, có hàng chục nhà hàng ở New York chấp nhận loại thẻ này, và người dùng thẻ lên đến hàng chục nghìn. Dần dần, thẻ được sử dụng rộng rãi ở cả các điểm du lịch, giải trí ngoài lĩnh vực ăn uống.
Chín năm sau đó, ngân hàng Bank of America thành lập Công ty dịch vụ BankAmericard, nhằm kinh doanh nhượng quyền thương hiệu và phát hành thẻ với các ngân hàng thẻ trên thế giới. Công ty này nhanh chóng phát triển và trở thành nhà phát hành TTD độc lập VISA vào những năm 1970 và phát hành thẻ ghi nợ (debit) vào năm 1975.
Đến năm 1966, tiền thân của MasterCard ra đời. Khi đó, Hiệp hội thẻ Liên Ngân hàng Mỹ (ICA) được thành lập bởi một nhóm ngân hàng phát hành thẻ.Họ cùng thiết kế hệ thống TTD quốc gia. Tổ chức này có nhiệm vụ phát triển một hệ thống mạng lưới thanh toán được chấp nhận rộng rãi. Ngày nay,VISA và MasterCard là hai tổ chức thẻ lớn nhất thế giới. Ngoài ra, còn nhiều nhà tổ chức thẻ khác là American Express, Diners Club... cũng tham gia thị trường nhưng ở quy mô nhỏ hơn.
3.1.1.3. Phân loại
Có nhiều tiêu chí phân loại TTD, tuy nhiên có một số tiêu chí cơ bản như sau:
Phân theo hạng thẻ: Việc phân loại TTD theo hạng thẻ giúp các NH quản lý đối tượng khách hàng được tốt hơn. TTD thường được các NH phân thành 3 hạng: thẻ chuẩn, thẻ vàng và thẻ bạch kim. Hạng thẻ càng cao thì yêu cầu đối với chủ thẻ càng cao nhưng bù lại sẽ được càng nhiều các đặc quyền, ưu đãi.
Theo chủ thể sử dụng: Bao gồm TTD cá nhân và TTD doanh nghiệp
+ TTD cá nhân được phát hành cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của mình. TTD cá nhân gồm thẻ chính và thẻ phụ. Thẻ chính dành cho người đứng tên xin phát hành cho chính họ sử dụng. Thẻ phụ sẽ do chủ thẻ chính đứng tên xin phát hành và chịu trách nhiệm với các khoản chi tiêu của thẻ phụ. Hạng thẻ phụ không được phép cao hơn thẻ chính, hạn mức thẻ phụ sẽ do thẻ chính quy định. Hạn mức tín dụng không thay đổi khi phát hành thêm thẻ phụ. Thẻ phụ cũng được hưởng ưu đãi như thẻ chính.
+ TTD doanh nghiệp được phát hành cho các tổ chức, công ty có nhu cầu sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của tổ chức đó. Tổ chức, công ty xin phát hành thẻ sẽ uỷ quyền cho một cá nhân trong doanh nghiệp dùng thẻ (thường là Tổng Giám đốc, Giám đốc Tài chính, cũng có thể là bất kỳ người nào trong công ty). Việc ủy quyền này phải kèm giấy ủy quyền hợp pháp theo quy định.
Phần lớn các NH đều phát hành TTD cá nhân, chỉ có một số ít NH phát hành TTD doanh nghiệp.
Phân loại theo phạm vi sử dụng: TTD nội địa và TTD quốc tế
+ TTD nội địa chỉ được sử dụng để giao dịch trong phạm vi một quốc gia, đồng tiền sử dụng là đồng nội tệ của quốc gia đó.
+ TTD quốc tế được sử dụng để giao dịch trên phạm vi toàn thế giới và sử dụng cho mọi loại tiền tệ. Có 4 nhà phát hành TTD quốc tế lớn thường được sử dụng nhiều nhất là Visa, Master, JCB và American Express.
TTD nội địa sẽ có yêu cầu thấp hơn, do đó lãi suất cũng thấp hơn TTD quốc tế nhưng do các hạn chế trong phạm vi giao dịch và thương hiệu trên thị trường nên chỉ một số ít NH phát hành TTD nội địa như ACB Express, TTD nội địa Nam Á Bank, Sacombank Family trong khi hầu hết các NH đều phát hành TTD quốc tế.
Phân loại theo công nghệ sản xuất: lịch sử của TTD đã trải qua ba công nghệ sản xuất TTD bao gồm thẻ dập nổi, thẻ từ và thẻ chíp
+ Thẻ dập nổi (Embossed Card): thời sơ khai của TTD, thông tin thẻ được dập nổi trên bề mặt thẻ. Ngày nay, loại thẻ này không được sử dụng nữa vì công nghệ quá thô sơ rất dễ làm giả, gây thiệt hại cho NH phát hành cũng như người dùng thẻ.
+ Thẻ từ (Magnetic Card): dựa trên kỹ thuật từ tính, thông tin thẻ được lưu trữ ở dãy băng từ trên mặt sau của thẻ. Loại thẻ này đã và đang được sử dụng phổ biến trong hơn hai mươi năm qua. Nhưng với những nhược điểm vốn có như: thông tin không được mã hóa, không gian lưu trữ ít, thông tin lưu trữ cố định, bảo mật chưa tốt,…loại thẻ này sẽ dần được thay thế bằng thẻ chip .
+ Thẻ chíp/thẻ thông minh (IC/Smart Card): là loại TTD có chứa một chip điện tử như một máy tính thu nhỏ và hoàn toàn độc lập trên bề mặt thẻ. Thẻ chíp khắc phục được hầu hết các nhược điểm của thẻ từ như: không gian lưu trữ lớn hơn, thông tin có thể được xóa và ghi lại nhiều lần, thông tin có thể được mã hóa nên độ bảo mật cao hơn. Thẻ chíp được đánh giá là cực kỳ an toàn cho khách hàng vì khó bị làm giả và đánh cấp thông tin. Thẻ chíp còn được phân làm ba loại nhỏ gồm thẻ chíp tiếp xúc, thẻ chíp phi tiếp xúc và thẻ chíp giao diện kép. Với sự hiện đại và an toàn của mình, thẻ chíp sẽ dần thay thế cho thẻ từ trong tương lai.
Phân loại theo thương hiệu: thông thường, TTD chỉ mang thương hiệu của NH phát hành. Tuy nhiên những năm gần đây, nhiều NH đã liên kết với các nhãn hàng, thương hiệu khác nhau để phát hành TTD đồng thương hiệu ví dụ như: thẻ đồng thương hiệu Mobifone – VP Bank Visa Platinum, Jetstar – Eximbank JCB, Lotte Mart – MSB, Techcombank – Vietnam Airlines Visa, Vietcombank – Vietravel Visa, Vietinbank – Big C,...Hiện nay, theo NHNN, có hơn 20 loại TTD đồng thương hiệu đang được lưu hành. Đây là hướng đi mới của các NH cũng như các nhãn hàng nhằm tận dụng khai thác mạng lưới khách hàng của nhau và cung cấp nhiều ưu đãi hơn đến khách hàng.
3.2. Những lợi ích và rủi ro của thẻ tín dụng
3.2.1. Những lợi ích mà thẻ tín dụng mang lại
Thẻ tín dụng là một trong những phương thức thanh toán mang nhiều ưu điểm và nhiều tiện ích cho các chủ thể trong nền kinh tế, nhất là đối với người sử dụng thẻ.
Đối với nền kinh tế
Lợi ích lớn nhất trong việc sử dụng thẻ là làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Ngày nay, việc thanh toán bằng TTD, hay chuyển tiền qua các ứng dụng trên điện thoại thông minh hiện nay là xu hướng tất yếu, điều này càng trở nên quan trọng đối với một quốc gia đang trên đà phát triểnnhư Việt Nam. Việc đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tác động tăng vòng quay của tiền, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, kiểm soát lạm phát.
Ngoài ra, khối lượng lượng tiền mặt trong lưu thông giảm sẽ giúp tiết kiệmcho nền kinh tế như chi phí phát hành tiền, kiểm đếm, bảo quản và vậnchuyển tiền mặt, tạo điều kiền cho quá trình thanh toán diễn ra an toàn, tiện lợi.
Trong xu thế toàn cầu hóa, việc sử dụng TTD góp phần giúp nền kinh tếphát triển nhanh hơn thông qua việc kích thích tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Từ đó, tạo ra môi trường văn minh thương mại thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài và khách du lịch. Thanh toán thẻ an toàn, hiệu quả, chính xác, nhanh chóng cũng sẽ tạo ra niềm tin đối với dân chúng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Việc sử dụng thẻ thanh toán thẻ còn giúp hạn chế vấn nạn tiền giả, hạn chế rửa tiền, ngăn chặn hành vi trốn thuế,kiểm soát được các giao dịch kinh tế, góp phần thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đối với ngân hàng phát hành (tổ chức phát hành thẻ)
Tất cả những khoản thu từ nghiệp vụ thẻ đem lại một tỷ suất sinh lời lên tới 20%/năm cho NH. Vì vậy, dễ hiểu tại sao TTD có một sức hấp dẫn lớn như vậy với những tổ chức kinh doanh thẻ.Đặc biệt đối với các NH thì việc phát triển dịch vụ thanh toán thẻ sẽ góp phần tạo ra cho NH những đối tác lâu dài và ổn định, giúp chuyển dịch cơ cấu lợi nhuận sang những hoạt động có rủi ro thấp thay vì hoạt động nhiều rủi ro như hiện nay.
Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ mà NH cung cấp, phát triển cho vay tiêu dùng bằngdư nợ thẻ tín dụng, mở rộng và tạo lập các mối quan hệ trong hoạt động
kinh doanh của NH. Đặc biệt, các loại TTD đồng thương hiệu còn giúp các NH mở rộng phạm vi khách hàng tiềm năng bằng việc tiếp cận nguồn khách hàng sẵn có của các đối tác mà NH liên kết.
Cùng với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác, thẻ tín dụng giúp thu hút khách hàng mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng giúp cho ngân hàng tận dụng để huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từdân cư. Sản phẩm thẻ tín dụng cũng góp phần xây dựng và củng cố uy tín, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng không chỉ ở thị trường trong nước mà còn cả ở thị trường quốc tế.
Đối với đơn vị chấp nhận thẻ
TTD cũng mang lại nhiều lợi ít cho đơn vị chấp nhận thẻ, có thể thấy như:
Thu hút thêm khách hàng, làm tăng thêm doanh số bán hàng và lợi nhuận. Ngày nay, ở các thành phố lớn, sử dụng TTD tại các cửa hàng chấp nhận thẻ hay mua sắm trực tuyến ngày càng phổ biến nhất là đối với các bạn trẻ cũng như nhân viên văn phòng. Vì vậy, chấp nhận thanh toán thẻ sẽ giúp cho các đơn vị chấp nhận thẻ phục vụ tốt hơn các đối tượng khách hàng này.
Được ngân hàng hỗ trợ về kỹ thuật và thiết bị, đồng thời có thể triển khai nhanh chóng các hoạt động khuyến mãi nhằm thu hút các khách hàng đang sử dụng TTD của các NH. Bên cạnh đó, nhà kinh doanh có thể mở rộng mối quan hệ với NH trong việc sử dụng các dịch vụ khác. Ngoài nhu cầu thanh toán, trong hoạt động kinh doanh, các cơ sở kinh doanh còn có nhu cầu sử dụng nhiều dịch vụ khác của NH như tín dụng, tiền gửi, thậm chí thu tiền mặt tại chỗ,… Vì vậy, việc tạo dựng mối quan hệ toàn diện và bền vững với các NH sẽ giúp cho các cơ sở kinh doanh được hưởng nhiều ưu đãi và thuận lợi khi giao dịch.
Ngoài ra, trước xu thế văn minh thương mại, các khách hàng với tấm thẻ nhỏ trong tay, chủ thẻ có thể thanh toán hàng hoá dịch vụ tại tất cả các đơn vị chấp nhận thẻ trên toàn thế giới bằng bất kỳ loại tiền nào. Điều này góp phần tăng sức cạnh tranh cho các đơn vị chấp nhận thẻ so với các đơn vị không chấp nhận thẻ thanh toán,nâng cao hiệu quả kinh doanh, thu hút được nhiều khác hàng trong nước và quốc tế, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài thường ngại mang theo và sử dụng tiền mặt nhằm hạn chế rủi ro, hướng tới một nên kinh tế không dùng tiền mặt.