Đóng Góp Của Đtpt Cảng Biển Vào Gia Tăng Độ Mở Của Nền Kinh Tế, Giai Đoạn 2005 - 2011


- 90% khối lượng hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam là qua cảng biển.

b. Đóng góp của ĐTPT cảng biển vào gia tăng độ mở của nền kinh tế

Trong giai đoạn 2005 - 2011, việc tăng cường đầu tư cho hệ thống cảng biển Việt Nam đã ảnh hưởng tốt tới sức cạnh tranh của lượng hàng hoá Việt Nam (chẳng hạn làm giảm chi phí vận chuyển do vận tải đường biển), từ đó làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng độ mở của nền kinh tế. Tuy nhiên việc đánh giá chính xác đóng góp của hoạt động ĐTPT cảng biển vào gia tăng độ mở của nền kinh tế là rất khó. Dựa trên các số liệu về tổng vốn ĐTPT cảng biển; tỷ lệ đóng góp của ĐTPT cảng biển vào tăng trưởng GDP của nền kinh tế (ước tính); dựa vào giá trị xuất khẩu của cả nước và tỷ lệ 80% hàng xuất khẩu được vận chuyển qua cảng biển; tỷ lệ hàng xuất khẩu chiếm 32,8% tổng khối lượng hàng qua cảng biển (bao gồm cả xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, nội địa), luận án ước tính tỷ lệ đóng góp của đầu tư phát triển cảng biển vào gia tăng độ mở của nền kinh tế trong bảng 2.31.

Bảng 2.31: Đóng góp của ĐTPT cảng biển vào gia tăng độ mở của nền kinh tế, giai đoạn 2005 - 2011

Đơn vị: %


Năm

Chỉ tiêu

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Bình

quân

1. Độ mở toàn nền kinh tế

(xuất khẩu/ GDP)

61,26

65,54

68,8

68,8

62,66

69,24

80,67

68,13

2. Đóng góp của ĐTPT

cảng biển vào độ mở của nền kinh tế


0,008


0,0079


0,0076


0,0065


0,007


0,0075


0,0051


0,007

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 258 trang tài liệu này.

Đầu tư phát triển cảng biển Việt Nam - 17

Nguồn: Xử lý của tác giả theo số liệu Tổng cục Thống kê và Cục Hàng hải Việt Nam

Chỉ tiêu trên cho thấy, nếu như độ mở của nền kinh tế là 68,13%/năm (tính trung bình giai đoạn 2005 - 2011) thì trong đó hoạt động đầu tư phát triển cảng biển tạo nên 0,007%, còn lại 68,123% (68,13% - 0,007% = 68,123%) là do các doanh nghiệp xuất khẩu và nhiều nhân tố khác của nền kinh tế tạo nên. Cần lưu ý là tỷ lệ 0,007% độ mở của nền kinh tế không phải do dịch vụ cảng biển tạo nên, mà chỉ là phần đầu tư cảng biển đóng góp mỗi năm.

c. Đóng góp của ĐTPT cảng biển vào thúc đẩy giao thương hàng hoá

Hoạt động ĐTPT đã hình thành nên mạng lưới cảng biển phân bố trên cả nước thuận lợi, nên hiện đã có trên 60 hãng tàu biển có tên tuổi quốc tế đang khai


thác các tuyến vận tải kết nối Việt Nam với toàn cầu. Những yếu tố trên đã góp phần không nhỏ để Việt Nam mở rộng mạng lưới thương mại. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với gần 200 nước trên thế giới [68]. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước tăng bình quân 21%/năm ngay cả khi có suy thoái toàn cầu (ngoại trừ năm 2009) và đạt đến con số 200 tỷ USD năm 2011, trong đó 80% hàng xuất nhập khẩu vận chuyển thông qua cảng biển. Với một nền kinh tế đang hội nhập, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng với tốc độ cao, hệ thống cảng biển Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò xương sống cho sự phát triển thương mại của đất nước, thúc đẩy giao thương hàng hoá với các nước trên thế giới.

Chỉ tiêu 5: Giảm chi phí vận chuyển và thời gian vận chuyển

Đối với hàng hoá trong nước:

Cảng biển là nền tảng cho vận tải biển phát triển. Vận tải biển có ưu thế hơn so với vận tải đường bộ và đường sắt bởi không chỉ cước phí thấp mà còn có những chi phí khác thấp hơn như chi phí giải phóng mặt bằng (khi xây dựng cảng biển) và khí thải nhà kính (khi vận hành các tàu biển).

So sánh chi phí vận chuyển 1 container 20 feet, trọng tải 23MT từ thành phố Hồ Chí Minh tới Hà Nội trên cơ sở vận tải từ cửa tới cửa, bằng 3 phương thức vận tải: đường biển, đường bộ, đường sắt được thể hiện ở bảng 2.32.

Bảng 2.32: So sánh chi phí vận tải nội địa


Dịch vụ vận tải


Tuyến

Phương thức

vận tải

Chi phí (USD)

Thời gian

(ngày)

Vận tải đường biển kết hợp với đường bộ (Hà Nội/ TP.HCM)

Cửa Hà Nội - bãi container Hải Phòng

Đ.bộ

120


Bãi container Hải Phòng - bãi container TP.

HCM

Đ.biển

200


Bãi container TP. HCM - cửa TP. HCM

Đ.bộ

120


Tổng


440

6

Vận tải bằng

đường bộ

Cửa Hà Nội - cửa TP. HCM

Đ.bộ

600

4

Vận tải đường bộ kết hợp với đường sắt

Cửa Hà Nội - ga Yên Viên hoặc Giáp Bát

Đ.bộ

100


Ga Yên Viên hoặc Giáp Bát - Ga Sài Gòn

Đ.sắt

300


Ga Sài Gòn - cửa TP.HCM

Đ.bộ

120


Tổng


520

7

Nguồn: Đoàn nghiên cứu VITRANSS 2 - Bộ Giao thông Vận tải thực hiện [20]


Bảng 2.32 cho thấy, vận chuyển bằng đường biển có chi phí thấp nhất và đặc biệt thích hợp khi vận chuyển khối lượng lớn mà không yêu cầu tần suất cao hoặc thời gian giao nhận nhanh. Chính vì vậy mà hiện nay, trên hành lang vận tải Bắc - Nam, tỷ phần đảm nhận phương thức vận tải biển chiếm tới 50% tổng nhu cầu vận tải hàng hoá. Như vậy, hệ thống cảng biển Việt Nam đã góp phần to lớn giảm chi phí vận chuyển cho hàng hoá nội địa.

Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu:

Trong giai đoạn hiện nay, chính sách kinh tế của Chính phủ là tăng trưởng kinh tế dựa vào công nghiệp hoá mà trước mắt sức cạnh tranh của Việt Nam sẽ phụ thuộc vào các ngành chế tạo có chi phí thấp. Tuy nhiên Việt Nam chưa phát triển được mạng lưới công nghiệp bổ trợ để cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp chế tạo nên Việt Nam phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ các ngành sản xuất trong nước. Do hầu hết các sản phẩm xuất nhập khẩu của Việt Nam đều được vận chuyển bằng đường biển nên chi phí vận chuyển bằng đường biển sẽ quyết định rất lớn đến sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam. Thế nhưng hệ thống cảng biển của Việt Nam hiện nay thiếu các cảng nước sâu cho tàu có trọng tải 40.000 tấn cập cảng, nên hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được chuyển qua các cảng Singapore, Hồng Kông rồi mới đưa lên các tàu lớn để đi xa hoặc hàng nhập khẩu từ nước ngoài phải qua Singapore, Hồng Kông rồi mới chuyển sang tàu nhỏ để về Việt Nam. Theo tính toán của các chuyên gia, vận tải và bốc xếp trung chuyển làm cho chi phí vận tải tăng thêm tới 28%, mất đi những lợi thế so sánh. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ khiến nền kinh tế Việt Nam tổn thất gần 1,5 tỷ USD mỗi năm. Từ năm 2009 đến nay, cụm cảng Cái Mép - Thị Vải sau khi được đầu tư đưa vào khai thác đã mở được nhiều tuyến đường biển trực tiếp từ Việt Nam đi Mỹ, EU, tiết kiệm được phần lớn chi phí đường biển cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và nền kinh tế. Việc cụm cảng nước sâu Cái Mép có thể tiếp nhận những tàu container lớn còn cho phép các tàu rút ngắn thời gian từ 7 - 10 ngày nếu từ Việt Nam trực tiếp đi Mỹ, rủi ro trong vận chuyển và giao hàng cũng giảm xuống. Nhờ đó mà chuỗi cung ứng hàng hóa từ Việt nam đi Mỹ hay nhiều nước khác đã thay đổi đáng kể vì với hành trình thời gian ngắn, chạy trực tiếp mà không qua trung chuyển cũng giúp nhà xuất khẩu Việt Nam có thêm cơ hội kinh doanh. Bởi các nhà nhập


khẩu thường ưu ái đặt hàng từ những nơi cung cấp bằng đường tàu biển vận chuyển trực tiếp hơn là gián tiếp.

Cảng Vân Phong được xây dựng dù mới đưa vào sử dụng 1 phần nhỏ, nhưng đã đem lại những lợi ích to lớn. Những năm trước đây, mỗi năm Việt Nam phải nhập gần 10 triệu tấn dầu thành phẩm và do chưa có cảng tiếp nhận được tàu chở dầu có trọng tải 100.000 DWT nên các tàu phải dỡ tại Singapore, sau đó các tàu chở dầu nhỏ của Việt Nam phải chạy rỗng tới Singapore để nhận hàng. Từ tháng 5/2002 đến nay, cảng Vân Phong tiếp nhận hàng triệu tấn dầu mỗi năm, trực tiếp từ các tàu lớn mà không cần trung chuyển qua Singapore, nên đã tiết kiệm cho nền kinh tế hàng nghìn tỷ dồng mỗi năm.

Như vậy, việc đầu tư xây dựng các cảng biển nước sâu có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn đang trở thành nhiệm vụ cấp bách để giảm chi phí và thời gian vận chuyển, từ đó giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên trường quốc tế, tiết kiệm chi phí cho các doanh nghiệp và tăng thu cho ngân sách nhà nước.

Chỉ tiêu 6: Tạo việc làm và tăng năng suất lao động

a. Tạo việc làm

Đầu tư xây dựng và khai thác cảng biển làm gia tăng đáng kể việc làm cho lực lượng lao động. Đây là hiệu quả vô cùng quan trọng đối với một quốc gia như Việt Nam hiện nay, dồi dào về lực lượng lao động nhưng tỷ lệ lao động dôi dư tương đối cao (khoảng 5 - 6%). Hoạt động ĐTPT và khai thác cảng biển ở Việt Nam tạo việc làm cho vài trăm ngàn lao động, bao gồm cả lao động giản đơn cũng như công nhân kỹ thuật và cán bộ quản lý có trình độ cao, cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp trong các ngành dịch vụ hàng hải. Trong đó lao động trực tiếp chỉ chiếm một phần nhỏ, còn số đông là việc làm cho lao động gián tiếp ở các lĩnh vực phụ trợ cho cảng biển như vận tải, dịch vụ kho bãi, hậu cần, cơ khí... và việc làm cho các doanh nghiệp xây dựng tham gia xây dựng mới hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng cảng biển, kho bãi, giao thông nối cảng... Theo ước tính của tác giả, năm 2012 có khoảng trên 45.000 người đang trực tiếp làm việc tại các cảng biển trong cả nước. Tính riêng Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, đơn vị đang quản lý gần 1/3 chiều dài bến cảng cả nước, giai đoạn 2005 - 2011 số lao động làm việc trong lĩnh vực cảng


biển luôn dao động từ 12.000 người đến 20.000 người/năm (xem phụ lục 2.12), với mức lương từ 3 triệu đồng/tháng đến 10 triệu đồng/tháng tùy theo từng cảng thuộc Tổng công ty. Cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng với quân số chính thức chỉ khoảng

3.500 người nhưng lao động bốc xếp trong các đội bốc xếp tự do rất đông, ngoài ra hàng vạn lao động ở các quận huyện ven biển có việc làm trong lĩnh vực dịch vụ phụ trợ cho cảng.

Trong những năm qua, thực hiện Nghị định số 41/NĐ-CP ngày 11/4/2002 về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp cảng đã tổ chức sắp xếp lại đội ngũ lao động theo hướng gọn nhẹ, tinh giảm biên chế nhiều lao động. Nhưng nhờ có hoạt động ĐTPT cảng biển tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới nên số lao động trong các doanh nghiệp không giảm đi mà tăng lên hàng năm. Đơn cử như cảng Hải Phòng, từ năm 2006 đến năm 2011 đã tạo thêm việc làm cho 1.040 lao động.

Bảng 2.33: Số lao động tăng thêm hàng năm nhờ hoạt động đầu tư phát triển tại cảng Hải Phòng, giai đoạn 2006 - 2011

Đơn vị: Người


Năm

Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

2011

1. Tổng số lao động

2.260

2.400

2.600

2.887

3.183

3.543

2. Lao động tăng thêm


140

200

287

296

360

Nguồn: Báo cáo thường niên của Công ty TNHH MTV Cảng Hải Phòng

Khu vực cảng Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu), trong tương lai nếu như 55 cảng biển đã được cấp giấy phép đầu tư được hoàn thành đưa vào sử dụng thì sẽ thu hút hơn 5000 cán bộ có trình độ chuyên môn cao của Việt Nam và các nước trên thế giới đến làm việc và sinh sống tại đây, đồng thời sẽ giải quyết được việc làm cho 20.000 lao động trong vùng [72].

b. Đầu tư phát triển cảng biển góp phần làm tăng năng suất lao động tại

cảng

Tốc độ tăng vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư đã ảnh hưởng nhiều đến năng suất của

lao động làm việc tại cảng. Cảng Hải Phòng là một ví dụ, hoạt động ĐTPT cảng biển đã góp phần làm tăng năng suất lao động khoảng 8,4% mỗi năm nhờ hiện đại hoá trang


thiết bị bốc xếp, ứng dụng tin học trong quản lý khai thác cảng (xem phụ lục 2.13).

Bảng 2.34: Tốc độ tăng năng suất lao động tại cảng Hải Phòng, giai đoạn 2006 - 2011

Chỉ tiêu

Đơn vị

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Bình

quân

1. Năng suất lao động (theo

giá hiện hành)

Triệu đồng/

1 LĐ

55,3

59,8

70,65

90,3

95,7

97,2

78,15

2. Năng suất lao động (theo

giá cố định 1994)

Triệu đồng/

1 LĐ

33,18

34,79

38,2

47,6

49

48,6

41,89

3. Tốc độ tăng năng suất lao

động (theo giá cố định 1994)

%


4,8

9,8

24,6

2,9

-0,008

8,4

Nguồn: Tính toán theo Báo cáo tài chính hàng năm của Công ty TNHH MTV Cảng Hải Phòng

Tuy nhiên, nếu so sánh chỉ tiêu "vốn đầu tư bình quân cho một lao động" và "năng suất lao động" của các doanh nghiệp cảng biển với cả nước, sẽ thấy tác động của ĐTPT cảng biển trong việc làm tăng năng suất lao động là chưa xứng với tiềm năng. Để đi đến kết luận này, luận án đã nghiên cứu cảng Cát Lái và cảng Hải Phòng, đại diện cho cảng biển hai miền Bắc - Nam, và kết quả nghiên cứu được thể hiện ở bảng 2.35:

Bảng 2.35: So sánh chỉ tiêu "Vốn đầu tư bình quân 1 lao động" và "Năng suất lao động" của các doanh nghiệp cảng so với cả nền kinh tế, giai đoạn 2005 - 2011

Đơn vị: Triệu đồng/lao động/năm (giá hiện hành)


Chỉ tiêu

Cảng Hải

Phòng

Cảng Cát

Lái

Cả nền kinh

tế

Khu vực

FDI

1. Vốn đầu tư bình quân cho

một lao động

218,7

180

17

128

2. Năng suất lao động tại cảng

78,15

229

40,3

188,6

Nguồn: Tính toán theo báo cáo tài chính hàng năm của Công ty TNHH MTV Cảng Hải Phòng; Công ty Cổ phần Cát Lái (từ năm thành lập đến nay) và [100]

Bảng 2.35 cho thấy trong khi vốn đầu tư bình quân cho 1 lao động của các doanh nghiệp cảng cao hơn gấp nhiều lần so với cả nền kinh tế và khu vực FDI, thì


năng suất lao động trong các doanh nghiệp cảng cao hơn không nhiều. Điều đó chứng tỏ trong những năm qua chưa thực sự chú trọng đầu tư theo chiều sâu để hiện đại hoá cảng biển. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, năng suất lao động là yếu tố quan trọng nhất để cạnh tranh nên rất cần phải điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư cảng biển theo hướng đầu tư nhiều hơn cho công nghệ và con người. Bảng 2.35 cũng cho thấy, cảng Cát Lái (công ty cổ phần) đầu tư hiệu quả hơn cảng Hải Phòng (công ty nhà nước) thể hiện vốn đầu tư cho 1 lao động ít hơn nhưng năng suất lao động cao hơn nhiều. Vậy có thể kết luận là hoạt động ĐTPT cảng biển đã tạo được nhiều việc làm, có tác động tốt đến năng suất lao động, tuy nhiên tác động này chưa xứng với lượng vốn đầu tư lớn đã bỏ ra.

Chỉ tiêu 7: Đóng góp của ĐTPT cảng biển vào tăng trưởng kinh tế

a. Đóng góp của ĐTPT cảng biển vào ngân sách nhà nước

* Đóng góp của ĐTPT cảng biển vào NSNN thông qua nộp thuế tăng thêm của các doanh nghiệp cảng

Về nghĩa vụ, hàng năm các doanh nghiệp cảng biển phải nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền lớn thông qua các loại thuế. Tuy nhiên thời gian qua, các doanh nghiệp cảng biển đóng góp cho NSNN không nhiều. Đơn cử như Tổng Công ty Hàng Hải Việt Nam, hàng năm khối cảng của Tổng Công ty Hàng Hải cũng chỉ nộp NSNN trên 100 tỷ đồng (xem phụ lục 2.12). Ngay cả Công ty Cổ phần cảng Cát Lái (thuộc Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn) hiện là một trong những doanh nghiệp cảng đầu tư hiệu quả nhất của ngành cảng biển thì năm 2011 toàn bộ các khoản thuế và phí phải nộp cho NSNN như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất, các loại thuế và phí phải nộp khác... cũng chỉ là 17,28 tỷ đồng [24].

Việc đóng góp NSNN không nhiều của khối cảng biển có thể vì hai lý do. Thứ nhất, là các doanh nghiệp cảng biển được nhà nước cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế: ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo Thông tư 134/2007/TT-BTC về hướng dẫn thực hiện miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư vào lĩnh vực cảng biển, ưu đãi về giảm các loại phí đối với các tàu trọng tải trên 50.000 DWT trở lên theo Thông tư 164/2010/TT-BTC và Thông tư 41/2012/TT-BTC để tạo lực hấp dẫn các hãng vận tải biển Quốc tế đưa


tàu đến làm hàng tại các cảng Việt Nam. Thứ hai, là do các doanh nghiệp cảng cạnh tranh nhau để giành khách hàng, nên đua nhau hạ giá cước, dẫn đến lợi nhuận không cao, nên số tiền nộp thuế cho NSNN không nhiều.

Tình hình nộp ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp cảng và tác động của ĐTPT cảng biển đến gia tăng phần đóng góp cho ngân sách nhà nước được thể hiện ở bảng 2.36, với trường hợp điển hình của TCT Hàng hải Việt Nam.

Bảng 2.36: Mức đóng góp ngân sách nhà nước tăng thêm của khối cảng biển thuộc Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, giai đoạn 2006 - 2011

Đơn vị: Tỷ đồng


STT

Năm

Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

2011

1

Nộp ngân sách của cả TCT Hàng

hải Việt Nam

555

770

1.262,9

1.180,9

1.190

835,8

2

Nộp ngân sách của khối cảng biển

112,2

123,8

141,4

138,3

183

125,3

3

Nộp ngân sách tăng thêm của khối

cảng biển nhờ ĐTPT cảng


11,6

17,6

-3,1

44,7

-57,7

Nguồn: Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam

Bảng 2.36 cho thấy, tác động của ĐTPT cảng biển làm tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước là không nhiều và không ổn định qua các năm (ví dụ như trường hợp của TCT Hàng hải Việt Nam) vì lý do độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư vào cảng biển được chi ra ở năm này, nhưng lại tạo ra tài sản ở những năm sau và khi những tài sản đó phát huy tác dụng, mới đóng góp cho ngân sách nhà nước thông qua các loại thuế, phí. Trong tương lai, khi các doanh nghiệp cảng của Việt Nam đủ khả năng cạnh tranh với các cảng trong khu vực và tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh bằng chất lượng dịch vụ chứ không phải bằng giá cước như hiện nay, thì ngành cảng biển nói chung và hoạt động ĐTPT cảng biển sẽ có thể đóng góp nhiều hơn cho NSNN thông qua các loại thuế, phí. Ví dụ như Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với 24 dự án cảng biển đã đi vào hoạt động với trên 21km cầu cảng [42] (chiếm 2/5 tổng chiều dài cầu cảng cả nước), dự kiến sẽ nộp NSNN khoảng 720 tỷ đồng vào năm 2015 từ thuế của các doanh nghiệp cảng biển [72].

* Đóng góp của ĐTPT cảng biển vào ngân sách nhà nước thông qua thuế xuất nhập khẩu tăng thêm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/09/2022