Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phẩn ngoại thương Việt Nam - 2


- Qua lý luận và thực tiễn, khẳng định hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh đóng vai trò vô cùng quan trọng với sự tồn tại và phát triển của các NHTM nói chung, VCB nói riêng. Tùy từng giai đoạn, tùy vào chiến lược phát triển, chiến lược cạnh tranh mà ngân hàng có những hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cụ thể phù hợp.

- Tìm ra các giải pháp căn bản, khả thi để tăng cường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cho VCB, cũng như có thể xem xét áp dụng cho các ngân hàng khác trong điều kiện thích hợp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các hoạt động đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB, kết quả và hiệu quả đạt được từ các hoạt động đầu tư đó. Phạm vi nghiên cứu của luận án là các hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh diễn ra tại VCB trong giai đoạn vừa qua (chủ yếu là giai đoạn 2005-2012).

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng nhiều phương pháp khoa học trong quá trình nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, so sánh, lập bảng, thống kê, toán học, suy luận logic, phỏng vấn chuyên gia…Luận án tiếp cận vấn đề trên quan điểm của doanh nghiệp, cụ thể là một NHTM, kết hợp mô tả và phân tích các số liệu thực tế thu thập qua nhiều năm, sử dụng các phương pháp khoa học để đánh giá một cách định lượng kết hợp định tính hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB.

6. Đóng góp của luận án

- Về mặt lý luận: Luận án đã phát triển các vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại: khái niệm, đặc điểm, vai trò, các yếu tố ảnh hưởng,… Luận án cũng chỉ ra: các nội dung của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào chiến lược cạnh tranh, công cụ cạnh tranh mà ngân hàng sử dụng trong từng giai đoạn. Để đánh giá hiệu quả của hoạt động này, luận án xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại, bao gồm những chỉ tiêu trực tiếp và gián tiếp, chỉ tiêu định tính và định lượng.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

- Về mặt thực tiễn: Vận dụng lý luận, luận án đã tổng kết và đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB qua nhiều góc độ. Với đặc điểm, vị thế cạnh tranh hiện tại, luận án chỉ ra rằng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB cần đặc biệt tập trung vào nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao trình độ nhân lực và đầu tư cho phát triển thương hiệu, xúc tiến bán hàng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB còn bất hợp lý chính vì chưa đầu tư đúng trọng điểm. Bằng việc tính toán các chỉ tiêu, luận án chỉ ra đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB đã tác động tích cực đến năng lực cạnh tranh nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Trên cơ sở phân tích các hạn chế, nguyên nhân, luận án đưa ra những giải pháp thiết thực cho VCB nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời có thể tham khảo cho các NHTM khác trong điều kiện thích hợp.

Điểm mạnh của luận án là có số liệu phong phú, chân thực, tập trung vào một vấn đề mới là đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM.

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phẩn ngoại thương Việt Nam - 2

Việc xác định hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng là một cố gắng của tác giả nhưng cũng là điểm khó khăn vì năng lực cạnh tranh là tổng hợp của nhiều nhân tố, không phải nhân tố nào cũng chịu tác tác động trực tiếp của đầu tư. Mặt khác, có những nhân tố không thể đánh giá định lượng mà chỉ có thể đánh giá một cách định tính.

7. Kết cấu của luận án.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án gồm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn Ngoại thương Việt Nam

Chương 3: Một số giải pháp tăng cường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cho Ngân hàng thương mại cổ phẩn Ngoại thương Việt Nam.


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại

1.1.1. Tổng quan về các ngân hàng thương mại [6], [37]

1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của ngân hàng thương mại

Phù hợp với trình độ phát triển vào từng thời kỳ mà mỗi quốc gia có các định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 16/06/2010, có hiệu lực từ thi hành từ 01/01/2011 thì “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” (mục 2 Điều 4) và “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” (mục 12 Điều 4) [37]

NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, số lượng ngân hàng. Hiểu theo nghĩa chung nhất thì “NHTM là doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận. NHTM chính là các doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ liên quan đến thanh toán, tiền tệ và cũng hoạt động vì lợi nhuận như bất cứ một doanh nghiệp nào khác”. [6]

Xét trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì “NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. [6]

Ngân hàng quan trọng đối với nền kinh tế vì Ngân hàng có ba chức năng cơ bản sau:


- Trung gian tài chính: kết nối giữa đối tượng cần vốn và đối tượng có vốn nhàn rỗi.

- Tạo phương tiện thanh toán: Khi khách hàng có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả cho các hàng hóa và dịch vụ. Qua nghiệp vụ cho vay, ngân hàng làm cho số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng tăng lên, nghĩa là ngân hàng tạo ra phương tiện thanh toán.

- Trung gian thanh toán: Với sự phát triển của công nghệ, ngân hàng ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ thanh toán đa dạng cho khách hàng, từ cung ứng tiền mặt, séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu,… tới các dịch vụ thanh toán hiện đại trên nền tảng của công nghệ tin học, điện tử như các loại thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,…

1.1.1.2. Hoạt động của Ngân hàng thương mại

NHTM là một doanh nghiệp cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính cho các cá nhân và tổ chức. Như vậy, cần phải xem xét NHTM dưới hai khía cạnh:

- NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận như các doanh nghiệp khác.

- NHTM là một trung gian tài chính với việc cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính.

Mặc dù vậy, hai khía cạnh không tách biệt nhau, với bản chất kinh doanh vì lợi nhuận thì danh mục các dịch vụ tài chính chính là sản phẩm cung cấp ra thị trường của doanh nghiệp – ngân hàng thương mại.

Xem xét dưới khía cạnh là trung gian tài chính, hoạt động của NHTM tập trung vào các dịch vụ tài chính cho cá nhân và tổ chức. Ngày nay, mỗi ngân hàng hiện đại có thể cung cấp hàng nghìn sản phẩm dịch vụ. Tuy nhiên, các sản phẩm dịch vụ đó đều thuộc một trong các nhóm dịch vụ sau:

(1) Nhận tiền gửi: Để có nguồn tiền cho vay lấy lãi và triển khai các hoạt động khác, ngân hàng phải có vốn. Ngoài nguồn vốn tự có, ngân hàng phải tìm mọi cách để huy động tiền. Một trong các nguồn tiền quan trọng là các khoản tiền gửi


(thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.

(2) Cho vay: Cho vay là một hoạt động truyền thống và là hoạt động sinh lời cao. Cho vay có nhiều hình thức: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án, …

(3) Mua bán ngoại tệ: ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.

(4) Bảo quản vật có giá: Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản và hưởng phí bảo quản.

(5) Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng và thông qua ngân hàng thực hiện các lệnh chi trả cho người thụ hưởng theo yêu cầu của người gửi tiền. Trên cơ sở tài khoản giao dịch đó, ngân hàng ngày càng cung cấp các dịch vụ thanh toán thuận tiện như ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ, ….

(6) Quản lý ngân quỹ: ngân hàng quản lý việc thu chi cho doanh nghiệp và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn nhưng vẫn đảm bảo có tiền mặt khi khách hàng cần thanh toán.

(7) Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Các ngân hàng mua trái phiếu Chính phủ hoặc cho Chính phủ, doanh nghiệp của Chính phủ vay với các điều kiện ưu đãi.

(8) Bảo lãnh: ngân hàng sử dụng uy tín và khả năng thanh toán của mình để bảo lãnh cho khách hàng trong các giao dịch và hưởng phí.

(9) Cho thuê thiết bị trung dài hạn: Ngân hàng mua máy móc thiết bị có giá trị lớn và ký hợp đồng thuê mua với khách hàng.

(10) Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: khách hàng ủy thác cho ngân hàng thực hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng cũng sẵn sàng cung cấp dịch vụ tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính cho khách hàng.

(11) Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm.


(12) Cung cấp các dịch vụ đại lý: làm đại lý cho các ngân hàng khác trong thanh toán, phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ,…

Xem xét dưới khía cạnh một doanh nghiệp, NHTM có những hoạt động cơ bản như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác nhưng có những đặc trưng riêng:

- Để cung cấp được sản phẩm đầu ra – các dịch vụ tài chính – ngân hàng cũng phải có các yếu tố đầu vào. Đầu vào đối với NHTM, bên cạnh nguồn vốn dồi dào, phải là các yếu tố cao cấp, phức tạp như đội ngũ lao động có chuyên môn cao, công nghệ hiện đại, cơ sở hạ tầng tiện nghi, mạng lưới rộng lớn,…

- Ngân hàng cũng phải vận hành một bộ máy quản lý và nhân sự đảm nhiệm các chức năng nhiệm vụ giống như các doanh nghiệp khác.

- Nghiên cứu ra các sản phẩm, xây dựng quy trình làm việc, quản lý rủi ro là những hoạt động đặc biệt quan trọng đối với NHTM.

- Giống như các doanh nghiệp khác, để bán được sản phẩm, NHTM cũng phải tiến hành các biện pháp marketing, quảng bá, xúc tiến bán hàng, chăm sóc khách hàng và củng cố, phát triển uy tín, thương hiệu của mình trên thị trường.

- Để có được nền tảng cơ bản phục vu cho hoạt động, duy trì và cải thiện các yếu tố đầu vào, vận hành được bộ máy quản lý hay tạo dựng được thương hiệu thì ngân hàng phải có tích luỹ, đầu tư một cách có định hướng. Đó chính là việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đầu tư vào nguồn nhân lực, đầu tư vào công nghệ, đầu tư cho phát triển thương hiệu…Và các yếu tố do đầu tư mà có được cũng chính là các yếu tố làm nên khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng.

Như vậy, NHTM bản chất là doanh nghiệp với mục đích, hoạt động cơ bản giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, bên cạnh đó, NHTM có những đặc thù riêng, nổi bật là vai trò trung gian tài chính vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về NHTM đều phải xem xét dưới cả hai góc độ này mới đảm bảo đầy đủ và phản ánh đúng bản chất của NHTM.


1.1.2. Lý luận về canh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại [39], [50], [56], [59]

(i) Khái niệm cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Cạnh tranh là khái niệm song hành với khái niệm kinh tế thị trường. Cạnh tranh được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển và quy luật hoạt động của kinh tế thị trường. Cạnh tranh hiểu theo nghĩa chung nhất là sự ganh đua hơn thua. Vậy trong kinh doanh, cần hiểu cạnh tranh như thế nào?

Ở phạm vi quốc gia, theo Ủy ban Cạnh tranh công nghiệp của Mỹ thì: cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân nước đó.

Ở cấp độ doanh nghiệp, theo Từ điển Kinh doanh (xuất bản năm 1992, tại Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm dành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hóa về phía mình. Hai nhà kinh tế học người Mỹ P.A Samualson và W.D Nordhaus trong nghiên cứu về kinh tế học cho rằng: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp để dành khách hàng hoặc thị trường. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất. Theo các tác giả trong cuốn “Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh kiểm soát độc quyền kinh doanh” thì cho rằng: cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc dành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. [56]


Mặc dù đưa ra những khái niệm khác nhau về cạnh tranh nhưng các tác giả đều thể hiện quan điểm chung về cạnh tranh như sau:

- Phải có nhiều chủ thể cạnh tranh với nhau;

- Các chủ thể cạnh tranh cùng hướng tới một mục tiêu: tài nguyên sản xuất, thị phần, lợi nhuận, …

- Sự “ganh đua”, “kình địch” bao hàm ý các chủ thể tiến hành nhiều biện pháp nhằm tạo ra lợi thế hơn so với đối thủ;

- Cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cụ thể, là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ và chịu tác động như chính sách pháp luật, thông lệ kinh doanh, nhu cầu của khách hàng,…

Trong lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngân hàng để đạt được mục tiêu kinh doanh. Các ngân hàng đều cung ứng các sản phẩm là dịch vụ tài chính ngân hàng và việc cạnh tranh đó diễn ra trong cùng một môi trường kinh doanh: chịu tác động của cùng một hệ thống chính sách, cùng một cơ sở hạ tầng, cùng những tập quán tiêu dùng của khách hàng,... Do đó, để “ganh đua”, mỗi ngân hàng phải tạo ra các ưu thế trong việc cung cấp các dịch vụ và vận dụng nó trong kinh doanh. Các ưu thế có thể là chất lượng dịch vụ tốt hơn, giá cả thấp hơn, hệ thống phân phối thuận lợi hơn,… so với các ngân hàng khác.

Vậy, theo tác giả, cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là việc các ngân hàng tạo ra và vận dụng các lợi thế so sánh trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ tại cùng một môi trường kinh doanh nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần, nâng cao vị thế của mình trên thị trường hơn so với các ngân hàng khác.

(ii) Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại [39], [50]

Trong cạnh tranh, không phải chủ thể nào cũng chiến thắng các đối thủ khác với cùng mục tiêu đặt ra. Phải chăng những chủ thể chiến thắng có lợi thế hơn những đối thủ cạnh tranh khác. Lý giải cho vấn đề này, cần phải nghiên cứu khái niệm “Năng lực cạnh tranh”.


Rất nhiều các học thuyết, các công trình nghiên cứu từ cổ điển tới hiện đại đã cố gắng lý giải cho vấn đề này. Các học thuyết cổ điển đã manh nha đề cập đến năng lực cạnh tranh, ở cấp độ quốc gia. Từ thế kỷ 18, lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith lý giải về việc một quốc gia trở nên giàu có. David Ricardo xây dựng lý thuyết lợi thế so sánh để lý giải về những lợi ích trong thương mại quốc tế và cũng đồng thời lý giải cho việc vì sao có những nước phát triển hơn nhờ vào khai thác các lợi thế tương đối của mình.

Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế quốc tế, đặc biệt là sự bùng nổ mạnh mẽ của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thông qua việc thành lập các tập đoàn đa quốc gia, sự cạnh tranh không chỉ giới hạn trong hoạt động thương mại mà còn thông qua các doanh nghiệp FDI. Các học thuyết cổ điển đã không còn lý giải được đầy đủ về hiện tượng này.

Heckscher và Ohlin lý giải lợi thế cạnh tranh bằng lý thuyết các nhân tố của quá trình sản xuất. Lý thuyết này được nhà kinh tế học Paul Sammuelson bổ sung nên còn được gọi là mô hình Heckscher - Ohlin - Sammuelson. Các lý thuyết về lợi thế theo quy mô, khác biệt hoá nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế, về cạnh tranh không hoàn hảo của Krugman, Helpman, nghiên cứu của Brian Hindley và Alasdair Smith về lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ (1984), học thuyết về khoảng cách công nghệ (technology gap), vòng đời sản phẩm (product cycle) của Raymond Vernon…cũng đưa ra những lý giải về khái niệm năng lực cạnh tranh.

Theo Heckscher và Ohlin thì lợi thế cạnh tranh của quốc gia được tạo ra trên cơ sở của những điều kiện tương đương về công nghệ, nhưng khác nhau về các nguồn lực được gọi là các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, các điều kiện tự nhiên và vốn. Như vậy, quốc gia đó sẽ xuất khẩu sản phẩm của những ngành có lợi thế về nhân tố sản xuất và nhập khẩu những sản phẩm mà quốc gia đó bất lợi về nhân tố sản xuất. Lý thuyết này giả định rằng không tồn tại yếu tố lợi thế nhờ quy mô và trình độ công nghệ, mà quy mô và trình độ công nghệ là tương đương ở mọi quốc gia; các sản phẩm không có tính khác biệt và các nhân tố sản xuất ở các quốc


gia là cố định. Do đó, lý thuyết này chỉ lý giải được lợi thế cạnh tranh trong thương mại ở một số ngành phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, những ngành không đòi hỏi cao về trình độ lao động và công nghệ. Hầu hết các học thuyết này chỉ dựa vào chi phí để lý giải cho lợi thế cạnh tranh, coi thay đổi công nghệ là nhân tố bên ngoài và chưa chú trọng đến chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm.

Ở cấp độ vi mô, có quan điểm cho rằng: “những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là những doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức trung bình về chất lượng hàng hoá và dịch vụ và/hoặc có khả năng cắt giảm các chi phí tuơng đối cho phép họ tăng được lợi nhuận và/ hoặc thị phần…” [50, tr.109]

Định nghĩa này phản ánh được tương đối toàn diện về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, nêu được mục tiêu của cạnh tranh và những yêu cầu cơ bản để cạnh tranh thành công. Tuy nhiên, dưới sự tác động của khoa học công nghệ, lợi thế cạnh tranh luôn luôn biến động nên nhược điểm của định nghĩa trên là không phản ánh được sự biến động đó.

Nghiên cứu toàn diện nhất, đầy đủ nhất về năng lực cạnh tranh là học thuyết của Michael Porter (M.Porter) - giáo sư trường Kinh doanh Harvard, người được coi là học giả có nhiều ảnh hưởng nhất trong nghiên cứu về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh quốc tế. Nghiên cứu về cạnh tranh của ông thể hiện qua 16 cuốn sách và hơn 100 bài báo về chiến lược và năng lực cạnh tranh. Các nghiên cứu về cạnh tranh của ông rất toàn diện: từ cấp độ doanh nghiệp, ngành cho đến quốc gia và cũng bao trùm cả lĩnh vực sản xuất, dịch vụ.

M.Porter đã đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh động. Theo đó, một doanh nghiệp lúc này có lợi thế cạnh tranh nhờ những ưu thế như nguồn lao động rẻ hay gần nguồn nguyên liệu sẽ có thể mất lợi thế cạnh tranh khi doanh nghiệp khác có lợi thế trên cơ sở những tiến bộ của khoa học công nghệ hay nhờ ưu thế về quy mô. Vì thế, một doanh nghiệp được gọi là có năng lực cạnh tranh còn phải là doanh nghiệp có khả năng duy trì và liên tục tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Theo ông, để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả


năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp nhũng hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn.

Như vậy, đề cập đến năng lực cạnh tranh, M.Porter đã đưa ra quan niệm bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh cần phải gắn liền với khả năng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội.

Ông khẳng định rằng học thuyết mới cần phải phản ánh sự phong phú của khái niệm cạnh tranh bao gồm phân đoạn thị trường, các sản phẩm được khác biệt hoá, sự khác biệt về công nghệ và lợi thế nhờ quy mô. Ông cho rằng cạnh tranh là một khái niệm động, liên tục phát triển và cạnh tranh là một mảnh đất luôn thay đổi mà ở đó, những sản phẩm mới, những cách marketing mới, những quy trình sản xuất mới và cả một thị trường mới sẽ liên tục xuất hiện. Lợi thế ở một thời điểm sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi những tiến bộ có tốc độ phát triển cao hơn.

Việc đưa ra một định nghĩa về năng lực cạnh tranh đầy đủ, chuẩn xác trong mọi trường hợp là không hiệu quả. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về từng đối tượng, cần phải đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của đối tượng đó. Các NHTM kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, năng lực cạnh tranh không chỉ đáp ứng mục tiêu lợi nhuận, thị phần, mà còn luôn luôn phải đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh.

Trên cơ sở các nghiên cứu về cạnh tranh và đặc điểm hoạt động của ngân hàng, tác giả đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng: Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và liên tục tăng cường những lợi thế nhằm đạt được mức cao hơn mức trung bình về chất lượng sản phẩm, dịch vụ và/ hoặc có khả năng giảm chi phí tương đối cho phép ngân hàng tăng được lợi nhuận, thị phần, đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh.


(iii) Đặc trưng trong cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Thứ nhất, bên cạnh việc ganh đua nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh, cạnh tranh trong ngân hàng lại nằm trong sự hợp tác tương đối. Các ngân hàng thương mại không thể hoạt động tách biệt nhau mà có sự liên quan chặt chẽ trong nhiều hoạt động: trên thị trường liên ngân hàng với hoạt động vay mượn, mua bán ngoại tệ, thanh toán…, hợp tác với nhau để cùng tạo thành một hệ thống cung cấp dịch vụ cho khách hàng mà trong đó mỗi ngân hàng đóng vai trò là một thành viên (ví dụ như hệ thống Banknet hay Smartlink cung cấp dịch vụ thẻ và ngân hàng tự động), hợp tác với nhau để cùng thực hiện các chính sách điều tiết tiền tệ của Nhà nước,…

Thứ hai, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu lành mạnh. Do đặc trưng của ngân hàng là kinh doanh trong lĩnh vực nhạy cảm và ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của nền kinh tế nên bất cứ sự cạnh tranh thiếu lành mạnh nào trong ngân hàng cũng có thể dẫn đến những rủi ro mang tính hệ thống và ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế xã hội. Cạnh tranh bằng lãi suất có thể làm dấy lên cuộc đua về lãi suất dẫn đến việc khó kiểm soát thị trường tài chính và làm sai lệch đến các chỉ tiêu vĩ mô, ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác, bất ổn kinh tế xã hội.

Thứ ba, cạnh tranh trong ngân hàng diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và tinh vi. Bản chất các sản phẩm của ngân hàng là dịch vụ tài chính. Lợi ích của sản phẩm ngân hàng được đo bằng các hiệu quả tài chính mang lại cho khách hàng và mức độ hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ. Hiệu quả tài chính có thể tính toán được cụ thể bằng con số và tùy thuộc vào thế mạnh, tiềm lực, khả năng công nghệ, trình độ quản lý của mỗi ngân hàng mà hiệu quả tài chính mang lại cho khách hàng khác nhau. Còn chất lượng dịch vụ là một phạm trù trừu tượng và thể hiện dưới nhiều hình thức, được truyền tải qua rất nhiều phương tiện, công cụ. Chính vì thế, các biện pháp cạnh tranh trong ngân hàng vô cùng đa dạng, phong phú và tinh vi. Cạnh tranh thô sơ bằng cắt giảm chi phí, giảm giá, thực sự không có nhiều ý nghĩa và hiệu quả, chỉ có tác dụng với một nhóm đối tượng khách hàng cụ thể và trong những giai đoạn nhất định. Lãi suất là một công cụ cạnh tranh nhạy

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022