Nhận Thức Chung Về Hoạt Động Đấu Tranh Phòng, Chống Tội Trốn Thuế


Mặc dù pháp luật thuế quy định đối tượng nộp thuế có thể là cá nhân hoặc tổ chức, tuy nhiên chủ thể của tội trốn thuế chỉ có thể là cá nhân. Theo luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm nói chung, chủ thể của tội trốn thuế nói riêng là một con người cụ thể, chứ không thể là pháp nhân. Theo nhiều nhà nghiên cứu, việc quy định như trên dựa vào cơ sở lý luận: bản thân pháp nhân đó không có ý thức, mà pháp nhân đó được thực hiện các hoạt động thông qua con người cụ thể, vì vậy không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân mà chỉ có thể truy cứu trách nhiệm với những người đại diện của pháp nhân đó. Quan điểm này hiện nay vẫn đang gây tranh cãi, và khác với luật hình sự của các nước như: Mỹ, Pháp, Hồng kông, Singapo...vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Theo hướng dẫn xử lý tội trốn thuế của Việt Nam thì chủ thể của tội trốn thuế có thể là: cá nhân có đăng ký kinh doanh hoặc không có đăng ký kinh doanh; người của tổ chức tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khác đã có chủ trương hoặc trực tiếp thực hiện việc trốn thuế (Thông tư liên ngành số 06/TTLN ngày 20/9/1996).

Trong thực tiễn hiện nay, phần lớn hành vi trốn thuế là của các tổ chức, doanh nghiệp và chính việc trốn thuế của các đối tượng này mới thường ở mức

độ nguy hiểm cao (số tiền trốn thuế lớn) và có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên dù hành vi vi phạm của tổ chức đó có gây thiệt hại lớn như thế nào cho Nhà nước thì nó cũng chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính, còn trách nhiệm hình sự chỉ đạt ra đối với các cá nhân có liên quan trong trường hợp họ là người thực hiện hoặc đưa ra chủ trương trốn thuế của tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong trường hợp đã có quyết định xử phạt hành chính

đối với tổ chức, doanh nghiệp trốn thuế, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính, nếu tổ chức, doanh nghiệp đó vẫn tiếp tục có hành vi trốn thuế (dưới 50 triệu đồng), chúng ta cũng không có cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế.


Vấn đề pháp nhân là chủ thể của tội phạm hiện vẫn đang còn nhiều ý kiến tranh luận. Song rõ ràng, việc giải quyết trách nhiệm đối với hành vi trốn thuế trong các trường hợp trên vẫn chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu của đường lối xử lý đối với loại tội phạm này.

d. Mặt chủ quan của tội trốn thuế

Mặt chủ quan của tội trốn thuế là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện và hậu quả đối với hành vi ấy. Mặt chủ quan này là mặt bên trong, được phản ánh thông qua những biểu hiện trong mặt khách quan của tội phạm, bao gồm: lỗi, động cơ và mục

đích phạm tội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Tội trốn thuế được thực hiện với lỗi cố ý. Trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội trốn thuế nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, họ thấy trước hậu quả của hành vi trốn thuế là gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách Nhà nước và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Dưới hình thức lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi trốn thuế của mình là nguy hiểm cho xã hội, họ thấy trước hậu quả của hành vi, tuy không mong muốn nhưng người phạm tội vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả

đó xảy ra.

Đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế - 7

Như vậy về mặt lý trí người phạm tội trốn thuế phải nhận thức được các hành vi: kinh doanh không có đăng ký, kinh doanh không kê khai nộp thuế, làm sai lệch sổ sách kế toán, ....là trốn thuế là trái pháp luật. Bản thân người phạm tội có nhiều khả năng xử sự khác nhau, trong đó có cách xử sự không trái pháp luật, tuy nhiên họ đã lựa chọn cách xử sự trái pháp luật, xâm hại trật tự quản lý thuế, làm thất thu thuế của Nhà nước.

Mục đích và động cơ của người thực hiện hành vi trốn thuế, đó chính là thu lợi từ việc không nộp thuế. Mặc dấu hiệu này không bắt buộc trong cấu


thành tội trốn thuế nhưng có nhiều trường hợp nó lại quyết định cùng một hành vi khách quan được định tội trốn thuế hay những tội khác.

Theo Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT giữa Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hoá

đơn giá trị gia tăng, tuỳ vào mục địch phạm tội mà hành vi này được xác định là dấu hiệu định tội của các tội phạm sau:

- Sử dụng để lập hồ sơ khống chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo

Điều 139 của Bộ luật Hình sự;

- Sử dụng để lập chứng từ khống về việc mua nguyên, nhiên vật liệu, vật tư, hàng hóa, chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người khác nếu có chức vụ quyền hạn thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tham ô tài sản" theo Điều 278 của Bộ luật Hình sự . Nếu không có chức vụ quyền hạn thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 của Bộ Luật Hình sự.

- Mua hóa đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hóa đơn đó để hợp thức hóa chứng từ về việc buôn bán trái phép hàng hóa, nếu chứng minh được là hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội buôn lậu" theo Điều 153. Nếu không chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa), thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội trốn thuế".

.........

Như vậy, cùng là hành vi mua bán hoá đơn, một hành vi tưởng chừng chỉ liên quan đến lĩnh vực thuế thì tuỳ vào mục đích của tội phạm (thuộc mặt chủ quan) lại trở thành hành vi khách quan của nhiều tội phạm khác nhau. Vì vậy trong quá trình xác định mặt khách quan của tội phạm cũng cần phải phân


tích làm rõ yếu tố mục đích của tội phạm để tránh việc nhầm lẫn trong việc

định tội danh.


đ. Hình phạt đối với người phạm tội trốn thuế:

Trong Bộ Luật hình sự 1999, chính sách xử lý đối với tội trốn thuế cũng như các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khác có sự chuyển biến căn bản so với các quy định trong Bộ Luật hình sự 1985, thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách xử lý đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung và tội trốn thuế nói riêng là phải đạt được mục đích chung của hình phạt: trừng trị và giáo dục, mặt khác hình phạt phải xuất phát từ "tính chất kinh tế" của tội phạm này nhằm đạt được hiệu quả cao trong áp dụng pháp luật. Theo đó, phạm vi áp dụng hình phạt tù được thu hẹp, phạm vi áp dụng các hình phạt tiền là hình phạt chính cũng như các hình phạt khác không phải là tù được mở rộng.

Điều 161 Bộ luật hình sự quy định ba khung hình phạt đối với người phạm tội trốn thuế như sau:

- Người phạm tội trốn thuế, nếu bị xét xử theo khoản 1 Điều 161 Bộ luật hình sự thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm;

- Phạm tội trốn thuế với số tiền từ 150 triệu đồng đến dưới 500 triệu

đồng hoặc tái phạm về tội này thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm;

- Phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

- Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 4 Điều 161 Bộ luật hình sự là người phạm tội có thể bị phạt tiền từ một đến ba lần số tiền trốn thuế.


Theo điều luật trên, người phạm tội trốn thuế sẽ bị áp dụng ba hình phạt chính là: phạt tiền; cải tạo không giam giữ; tù có thời hạn và một hình phạt bổ sung là phạt tiền. Khi xét xử, toà án chỉ được áp dụng một trong ba hình phạt chính nêu trên, kèm theo hình phạt chính có thể áp dụng hình phạt bổ dung là phạt tiền. Việc chuyển sang hình phạt khác thì chỉ có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn (Điều 47 Bộ Luật hình sự 1999).

Hình phạt tiền là hình phạt tước đoạt một khoản tiền nhất định của người trốn thuế để sung quỹ Nhà nước. Đối với tội trốn thuế hình phạt tiền

được áp dụng với cả hai tư cách là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Việc

áp dụng hình phạt tiền như trên có ý nghĩa răn đe cao vì tiền chính là mục đích của kẻ phạm tội trốn thuế. Hiện nay, mức phạt tiền theo quy định của Bộ Luật hình sự 1999 là từ 1 đến 5 lần số tiền trốn thuế. Như vậy người phạm tội có thể bị phạt từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng, vì mức phạt có thể được nhân lên từ 1 đến 5 lần số tiền trốn thuế. Nếu so sánh với mức phạt tiền ở các tội phạm xâm phạt trật tự quản lý kinh tế khác thì số tiền phạt này khá cao, ví dụ như tội vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới mức phạt tiền chỉ có: 5 triệu đến 20 triệu đồng. Cách quy định hình phạt tiền đối với tội trốn thuế khác với các tội phạm khác ở chỗ mức phạt tiền được xác

định theo số tiền vi phạm, chứ không ấn định số tiền phạt, vì vậy mức độ vi phạm càng lớn thì hình phạt cũng cao lên tương ứng. Quy định như trên là phù hợp với tính chất của tội phạm, và đạt được mục đích của hình phạt là trừng trị và răn đe, giáo dục người phạm tội. Quy định này cũng áp dụng với hình phạt tiền là hình phạt bổ sung.

Hình phạt chính thứ hai đối với tội trốn thuế là: cải tạo không giam giữ. Hình phạt này lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật hình sự 1985, và được

áp dụng khá phổ biến đối với các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Nếu so sánh với các hình phạt khác trong hệ thống hình phạt hiện đang được

áp dụng, thì hình phạt cải tạo không giam giữ nặng hơn hình phạt cảnh cáo và


phạt tiền, nhưng lại nặng hơn hình phạt tù. Việc áp dụng hình phạt này cũng thể hiện chính sách xã hội hoá công tác giáo dục người phạm tội, đồng thời tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo. Theo Điều 31 Bộ Luật hình sự 1999 thì hình phạt này được áp dụng nếu người phạm tội có nơi làm việc ổn

định hoặc nơi thường trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi xã hội mà mục đích hình phạt vẫn đạt được.

Điều kiện thứ nhất để áp dụng hình phạt này là: người phạm tội có nơi làm việc, hoặc nơi thường trú rõ ràng vì cơ chế tổ chức áp dụng hình phạt phải có sự kết hợp với chính quyền địa phương và cơ quan nơi người đó công tác trong việc theo dõi, giám sát, giáo dục đối với người bị kết án.

Điều kiện thứ hai để áp dụng hình phải tạo không giam giữ là, xét thấy không nhất thiết phải cách ly người phạm tội trốn thuế ra khỏi xã hội. Để xác

định có đủ điều kiện thứ hai không tuỳ thuộc vào đánh giá của toà án về các yếu tố có ảnh hưởng đến tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng hình phạt cho phù hợp.

Khi thực hiện hình phạt cải tạo không giam giữ người bị kết án được giao cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc hoặc sinh sống để trực tiếp theo dõi, giám sát, quản lý. Theo Nghị định 60/2000/NĐ-CP, người bị cải tạo phải thực hiện các nghĩa vụ báo cáo bằng văn bản với người trực tiếp giám sát giáo dục về tình hình rèn luyện, tu dưỡng của mình. Ba tháng một lần phải kiểm điểm trước tập thể nơi mình cư trú về kết quả thực hiện cam kết của mình. Muốn ra khỏi nơi cu trú phải xin phép, và phải có mặt khi cơ quan tổ chức giám sát yêu cầu. Nếu vắng mặt khỏi nơi cư trú từ một tháng trở lên phải có nhận xét của cảnh sát khu vực hoặc công an xã nơi người đó đến tạm trú. Nếu người phạm tội là cán bộ, nhân viên hoặc quân nhân, sỹ quan, toàn bộ thời gian cải tạo không giam giữ không được tính thâm niêm để nâng lương, phong quân hàm.


Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng không những phát huy

được sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời

đánh thức sự tự trọng nên việc giáo dục người phạm tội đạt hiệu quả cao. Với diễn biến tình hình hiện nay cần mở rộng áp dụng hình phạt này đối với tội trốn thuế.

Hình phạt chính thứ ba đối với tội trốn thuế là phạt tù có thời hạn.

Đây là hình phạt nặng nhất đối với tội trốn thuế, và chỉ áp dụng ở cấu thành tăng nặng ở khoản 2 và khoản 3, cụ thể như sau: Phạm tội trốn thuế với số tiền từ 150 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc tái phạm về tội này thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu

đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Hiện nay đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thì hình phạt tù đang được giảm nhẹ và thay thế bằng những hình phạt khác phù hợp với tính chất kinh tế của tội phạm, mức phạt tù cao nhất đối với tội trốn thuế theo Bộ Luật hình sự 1985 là 12 năm, còn Bộ Luật hình sự hiện hành là 7 năm.


1.2 Nhận thức chung về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế

1.2.1.1 Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm của hoạt động đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế:

Khái niệm đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế được hiểu là những hoạt động nhằm: một mặt không để cho tội phạm trốn thuế xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội, mặt khác, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. [4, tr.199]

Hiện tượng trốn thuế là kết quả của sự tác động qua lại giữa hàng loạt các hiện tượng tiêu cực xã hội với nhau, làm phát sinh và tồn tại tội trốn thuế


trong xã hội, do đó hướng giải quyết tốt nhất nhằm đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế là bằng mọi cách thủ tiêu các tiêu cực xã hội là nguyên nhân của tội phạm. Theo hướng này hoạt động đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế được hiểu là một trong những phương tiện điều chỉnh sự phát triển các quan hệ xã hội như là sự tác động lẫn nhau của các biện pháp kinh tế - xã hội, giáo dục - sư phạm, tổ chức - pháp luật nhằm mục đích hạn chế, loại trừ nguyên nhân nảy sinh tội phạm trốn thuế.

Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền kinh tế đất nước, bảo đảm công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách, cung cấp tài chính cho hoạt

động an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng, hành chính công..., và mọi hoạt động khác thuộc chức năng của nhà nước. Bên cạnh đó, thuế còn là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Tình trạng trốn thuế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn tài chính quốc gia, ảnh hưởng gián tiếp đến mọi hoạt động bình thường của nhà nước, tác động đến cuộc sống của mỗi người dân. Hiện tượng tội phạm này diễn ra nghiêm trọng sẽ làm cho nền kinh tế bị lũng đoạn do nhà nước mất công cụ kiểm soát và

điều tiết, gây nhiều hậu quả tiêu cực cho xã hội. Chính vì vậy đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế là một nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Tội phạm trốn thuế diễn ra ngày càng phức tạp với quy mô rộng lớn và thủ đoạn tinh vi, khó kiểm soát và phát hiện. Vì vậy đấu tranh phòng chống tội phạm trốn thuế là một nhiệm vụ khó khăn, cần có sự kết hợp giữa nhiều cơ quan chức năng như: công an, kiểm sát, toà án, bộ đội biên phòng, hải quan, thuế, quản lí thị trường.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 07/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí