ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, du lịch sinh thái đã và đang phát triển nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới, ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các tầng lớp xã hội. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng, phát triển du lịch sinh thái đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho các quốc gia cũng như cộng đồng người dân các địa phương, nhất là người dân ở các vùng sâu, vùng xa - nơi có các khu bảo tồn tự nhiên và các cảnh quan hấp dẫn. Ngoài ra, du lịch sinh thái còn góp phần vào việc nâng cao dân trí và sức khỏe cộng đồng thông qua các hoạt động giáo dục môi trường, văn hóa lịch sử và nghỉ ngơi giải trí. Chính vì vậy ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, bên cạnh các lợi ích về kinh tế, du lịch sinh thái còn được xem như một giải pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường sinh thái thông qua quá trình làm giảm sức ép khai thác nguồn lợi tự nhiên phục vụ nhu cầu của khách du lịch, của người dân địa phương khi tham gia vào các hoạt động du lịch.
Việt Nam là một trong những nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú, có tính đa dạng sinh học cao và có nhiều dạng hệ sinh thái điển hình. Tính đến năm 2009, cả nước đã có 128 khu rừng đặc dụng trong đó có 30 vườn quốc gia, 60 khu bảo tồn thiên nhiên và 38 khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường với tổng diện tích trên 2,4 triệu hecta. Đây chính là những là tiền đề để phát triển loại hình du lịch sinh thái. Nhưng hiện nay, du lịch sinh thái ở Việt Nam vẫn đang là loại hình du lịch mới cả về khái niệm lẫn tổ chức quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên phục vụ cho mục đích du lịch sinh thái.
VQG Phong Nha – Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất địa mạo được UNECO công nhận là DSTN thế giới, đồng thời ở đây ẩn chứa nhiều giá trị quốc gia và toàn cầu về Đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, khu vực VQGPN-KB là nơi ghi dấu nhiều giá trị văn hóa, lịch sử, được Chính phủ xếp hạng là 10 Di tích quốc gia cấp đặc biệt. Do vậy VQG PN-KB có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái. Trong Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam, VQG PN- KB đã được Tổng Cục Du lịch xác định "Khu Du lịch
sinh thái hang động Phong Nha - Kẻ Bàng" là một trong 31 khu du lịch chuyên đề của cả nước.
Với sự nỗ lực trong nhiều năm qua, Phong Nha - Kẻ Bàng đã trở thành địa danh du lịch hấp dẫn khách tham quan trong và ngoài nước. Việc phát triển du lịch đã tạo ra nhiều việc làm, thu nhập nhận thức cho dân địa phương các xã vùng đệm, góp phần tích cực vào xóa đói giảm nghèo và sự nghiệp phát triển KTXH của địa phương.
Tuy vậy việc khai du lịch ở đây vẫn còn khá đơn điệu và chỉ dừng lại ở việc khai thác cảnh quan hang động, nhiều giá trị tài nguyên du lịch sinh thái chưa được đánh giá và khai thác đúng mức để đáp ứng nhu cầu của xã hội, nâng cao thu nhập nhận thức, xóa đói giảm nghèo cho cộng đồng, hỗ trợ bảo tồn và phát huy Di sản thế giới góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cả về lý luận và yêu cầu thực tiễn, với vị trí công tác của mình tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá và đề xuất chiến lược khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình" làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Cao học của mình tại trường Đại học Lâm nghiệp khóa 17- LÂM HỌC năm học 2009-2011.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá và đề xuất chiến lược khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình - 1
- Những Nghiên Cứu Về Du Lịch Sinh Thái
- Thu Thập Số Liệu Gián Tiếp Liên Quan Đến Nội Dung Nghiên Cứu Số Liệu Thứ Cấp
- Đánh Giá Hiện Trạng Tài Nguyên Dlst Tại Vqg Pn-Kb
Xem toàn bộ 159 trang tài liệu này.
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Những nghiên cứu về du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái được coi là một trong những cách thức vừa hỗ trợ bảo tồn đồng thời Phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Tại hội nghị các Vườn Quốc gia thế giới lần thứ V do IUCN tổ chức đã khẳng định “Du lịch Sinh thái ở trong và ngoài khu bảo tồn là một phương pháp bảo tồn: hỗ trợ, tăng cương nhận thức về các giá trị quan trọng của Khu bảo tồn như giá trị sinh thái, văn hóa, tinh thần, thẩm mỹ, giải trí và kinh tế; đồng thời tạo thu nhập phục vụ bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học, hệ sinh thái và di sản văn hóa. Du lịch sinh thái cũng đóng góp nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng bản địa... [27].
Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Costa Rica và Nê Pan, Thái Lan… một số chủ trang trại chăn nuôi đó bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đó biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương.
Ở Ecuađo sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galapze để giúp duy trì toàn bộ mạng lưới vườn quốc gia. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái.
Chính phủ Nhật Bản cũng tích cực khuyến khích phát triển du lịch sinh thái với những chính sách rõ ràng, thành lập các đơn vị chuyên trách và các quỹ nhằm duy trì và phát triển nghành Du lịch hướng tới thiên nhiên để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. Theo báo cáo về xu hướng du lịch của khách du lịch Nhật Bản do Công ty giao thông Nhật Bản thực hiện vào năm 2004, loại hình du lịch được khách du lịch Nhật Bản ưa thích nhất là du lịch tắm suối nước nóng (chiếm 57,9 %). Xếp thứ 2 là du lịch hướng tới thiên nhiên (45,7%). Nhận thức về du lịch sinh thái của người dân cũng cải thiện rõ rệt trong những năm gần đây[24].
Hector Ceballos-Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh thái, định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với những mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới động-thực vật hoang dã, cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này"[29]
Năm 1994 nước Úc đã đưa ra khái niệm “DLST là Du lịch dựa vào thiên nhiên, có liên quan đến sự giáo dục và diễn giải về môi trường thiên nhiên được quản lý bền vững về mặt sinh thái”[24].
Theo Hiệp hội DLST Hoa Kỳ, năm 1998 “DLST là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa phương” [24].
Một định nghĩa khác của Honey (1999) “DLST là du lịch hướng tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh thường được bảo vệ với mục đích nhằm gây ra ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất. Nó giúp giáo dục du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi trường, nó trực tiếp đem lại nguồn lợi kinh tế và sự tự quản lý cho người dân địa phương và nó khuyên kích tôn trọng các giá trị về văn hóa và quyền con người”[24].
Theo Hiệp hội Du lịch Sinh Thái (The Internatonal Ecotourism society) thì “DLST là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”[38]
Nghiên cứu về những yêu cầu cơ bản đối với phát triển du lịch sinh thái tại các khu BTTN và VQG, theo Drumm [28] thì những yếu tố dưới đây có vai trò quyết định đối với việc tổ chức thành công hoạt động DLST là:
- Ít gây ảnh hưởng tới tài nguyên thiên nhiên của KBTTN và VQG
- Thu hút sự tham gia của các cá nhân, cộng đồng, khách DLST, các nhà điều hành tour và các cơ quan tổ chức phi chính phủ.
- Tôn trọng văn hóa truyền thống địa phương
- Tạo thu nhập lâu dài và bình đẳng cho cộng đồng địa phương và cho các bên tham gia khác, bao gồm cả những nhà điều hành tour tư nhân.
- Tạo nguồn tài chính cho công tác bảo tồn của KBTTN
- Giáo dục những người tham gia về vai trò của họ trong công tác bảo tồn Theo Tổ chức du lịch thế giới (WTO) nguyên tắc phát triển du lịch sinh thái là:
- Phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan giải trí, khám phá tìm hiểu tự nhiên và con người. Đây chính là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động DLST.
- Hỗ trợ công tác bảo tồn tài nguyên du lịch sinh thái nói riêng và tài nguyên ở các VQG, KBT nói chung. Cụ thể là DLST phải được tổ chức có tính khoa học, có tính giáo dục môi trường cao, đồng thời đem lại lợi nhuận tái phục vụ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
- Hỗ trợ kinh tế, tạo thêm những lợi ích kinh tế lâu dài cho cộng đồng dân địa phương, những người có quyền quyết định cho sự phát triển VQG và trong công tác hoạch định du lịch.
Xuất phát từ những vấn đề trên chúng ta có thể thấy, nếu các hoạt động du lịch mà không đáp ứng được các tiêu chí trên thì không thể xem là DLST.
* Kinh nghiệm phát triển DLST tại một số VQG và khu BTTN trên thế giới:
- DLST ở VQG Galapagos [29]
Vườn Quốc gia Galapagos ở Equado không chỉ là một VQG mà còn là một di sản thế giới, một khu dự trữ sinh quyển, và giời đây còn là một khu dự trữ sinh thái biển. Về mặt vị trí thì VQG Galapagos nằm tách khỏi lục địa, có môi trường phù hợp cho các loài sinh vật thích nghi như Rùa, Kỳ đà, Chim sẻ, Xương rồng khổng lồ và họ hàng Hướng dương, Chim cốc không bay, Chim bói cá và nhiều giống động thực vật khác.
Galapagos có lẽ là một trong những nơi thuận lợi nhất trên thế giới để nghiên cứu về tiến hóa của hệ sinh thái. Được thưởng thức những quang cảnh đại dương, ven biển và đất liền. Nơi động vật hoang dã đã tiến hóa và như không có chút sợ hãi nào đối với con người đây chính là một cảm giác thật khó so sánh.
Khác với các VQG khác ở Equado và các nước Châu Mỹ la tinh khác, nơi có thể có người sống hợp pháp hoặc không hợp pháp trong phạm vi được bảo vệ, người dân ở Galapagos không được pháp sống trong VQG. Họ tập trung ở khoảng 4% diện tích của quần đảo trên đất thuộc sở hữu tư nhân. Hầu hết khách tham quan
từ đất liền đi bằng máy bay đến các đảo, sau đó đi thăm thú bằng các tua du lịch được thiết kế sẵn.
Sau mười năm đầu kể từ khi đón khách, chiến lược quản lý và hỗ trợ quản lý đầu tiên của VQG được thực hiện tương đối suôn sẻ với một số lượng nhỏ du khách và phát triển liên tục trong nhưng năm 1970. Từ ban đầu có 7000 khách tham quan đến năm 1973 là 12.000 khách, năm 1981 là 2.500 khách và năm 1989 đã thu hút gần 42.000 khách. Sau đó, sự sa sút của nền kinh tế khu vực đã dẫn đến việc giảm ngân sách của dịch vụ DLST ở VQG Galapagos. Nhưng với những biện pháp hữu hiệu cộng với sự hỗ trợ nỗ lực của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ môi trường toàn cầu.. đã làm vực lại sự phát triển DLST ở đây.
Chuyến du lịch truyền thống ở đây là một chuyến đi chơi biển bằng tàu thủy kéo dài một tuần đến các điểm du lịch khác nhau. Những năm gần đây Galapagos phải tiếp ngày càng tăng lượng khách tới thăm, các nhà điều hành đã rất linh hoạt, ngoài tour Du lịch truyền thống thì họ đã tổ chức các tour ngắn ngày hơn, thậm chí là 1 ngày, để phù hợp hơn với các đối tượng khách khác nhau. Nhìn chung các hoạt động đã đem lại lợi nhuận cao cho VQG Galapagos và cộng đồng người dân ở đây. Hiện có 6 Du thuyền, bốn tàu thủy (chở được từ 34 người đến 90 người), 75 thuyền máy lớn và 10 thuyên buồn... những năm gần đây nhu cầu cấp phép hoạt động thuyền du lịch ở đây là rất lớn, đã có nhiều bất cập xảy ra trong hoạt động này song Ban quản lý VQG và chính phủ Equador đã có những điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế phù hợp số lượng thuyền hoạt động. Với nguồn thu 40 USD lệ phí vào VQG và nguồn phí từ các hoạt động của các nhà điều hành du lịch được dùng để phục vụ cho các hoạt động của Vườn và hỗ trợ các hoạt động bảo tồn ở các khu bảo tồn khác ở Equador, đây là những đóng góp đáng kể mà không phải các VQG khác trên thế giới làm được. Hiện nay thì Galapagos đang được coi là mỏ vàng của Equador .
Một số kinh nghiệm của việc phát triển DLST ở VQG Galapagos:
+ Các hoạt động dịch vụ VQG đã được tổ chức tập huấn cẩn thận và được cấp chứng nhận cho các hướng dẫn viên, các hướng dẫn viên này sẽ đi cùng với tất cả các đoàn tham quan, vừa đóng vai trò hướng dẫn vừa kiểm soát các hoạt động không tốt cho môi trường của khách du lịch.
+ Phương tiện tham quan là đa phần bằng thuyền, các dịch vụ ăn nghỉ điều ở trên thuyền phần nào đã giảm tác động vào các khu vực tham quan của khách. Khu tham quan thường ngắn và có ranh giới rõ ràng. Các hành trình của chuyền tham quan điều được cố định và không được vào các khu vực chưa bị xâm nhập của các loài nhập nội.
+ Các phương tiện hoạt động dịch vụ ở VQG điều kiểm soát và cấp phép khá chặt chẽ.
+ Các hoạt động của VQG điều được phân vùng quản lý và có chiến lược quản lý các hoạt động DLST.
- DLST ở KBT Annapurna [28]
KBT Annapurna, Nê Pan được bao bọc bởi các ngọn núi thuộc loại cao nhất thế giới. Là một khu vực có các điều kiện tự nhiên rất khác biệt. Do các điều kiện khí hậu khác nhau, từ cận nhiệt đới tới ôn đới, sa mạc và khô khu vực này được thiên nhiên ban tặng cho những điều kiện tuyệt vời cho các loài động, thực vật quý hiếm phát triển như loài Báo tuyết, Cừu xanh, hơn 100 chủng loại Phong lan và là một trong các khu rừng Đỗ quyên lớn nhất thế giới. Phần lớn dân cư sống ở đây là tá điền, sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn trong khu vực và phát triển các hệ thống quản lý truyền thống của riêng họ.
Trong vòng hai thập kỷ qua các hoạt động du lịch được triển khai ở vùng này và phát triển một cách nhanh chóng đã làm nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đây bị khai thác tới mức giới hạn và KBT đã rơi vào bờ vực của sự khủng hoảng.
Hằng năm có hơn 36.000 khách ưa mạo hiểm đã tới Annapurna để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của phong cảnh và thưởng thức sự độc đáo của các bản sắc văn hóa bản địa, tạo nguồn thu nhập lớn cho nhiều người ở cộng đồng địa phương, nhưng nó cũng đã tạo nên một số vấn đề về môi trường nghiêm trọng. Rừng bị chặt hạ để làm nhiên liệu nấu ăn, sưởi ấm và làm nhà nghỉ, sự ô nhiễm nguồn nước, hệ thống xử lý rác yếu đã làm rác lan tràn trên các tuyến đường và các khu có hoạt động du lịch, cộng thêm sự gia tăng dân số nhanh.
Hoạt động du lịch sinh thái là một trong những nguồn thu nhập ngoại tệ chính của Nê Pan, nhưng lại không đếm xỉa đến những người dân địa phương. Chính vì thế những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch lại càng trở nên trầm trọng. Trước những nhu cầu đó mà năm 1986 đã xuất hiện dự án xây dựng khu bảo
tồn Annapurna. Dự án đề cập đồng thời 3 khía cạnh chính là bảo tồn thiên nhiên, phát triển nhân lực và quản lý du lịch.
Mục tiêu của dự án là bảo vệ môi trường tự nhiên và văn hóa vùng Annapurna vì lợi ích của 40.000 dân cư trong vùng cũng như du khách quốc tế, song song với hoạt động nâng cao nhận thức về sự mong manh của Môi trường.
Các hoạt động đã chia ra làm 8 nhóm bao gồm bảo tồn rừng, các nguồn năng lượng thay thế, giáo dục bảo tồn, quản lý du lịch, phát triển cộng đồng, sức khỏe và vệ sinh cộng đồng, các ủy ban quản lý cộng đồng, nghiên cứu.
Kết quả dự án sau 5 năm thực hiện, khắp nơi trên vùng Annapurna đã chứng kiến sự thay đổi theo chiều hướng tốt trong việc bảo vệ môi trường, văn hóa bản địa được gìn giữ, mức sống của người dân được nâng lên, khách du lịch có được cảm giác tốt hơn khi các dịch vụ được nâng lên, mặt khác họ hiểu được rằng du lịch sinh thái không chỉ là những trải nghiệm mà còn giúp cho đời sống người dân ở đây, giúp ích cho hoạt động bảo tồn, bảo vệ môi trường.
Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ những mô hình Du lịch Sinh thái ở các VQG trên thế giới.
Qua việc tìm hiểu hoạt động DLST ở các VQG và khu BTTN trên thế giới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm khi tiến hành hoạt động DLST ở VQG của Việt nam nói chung và VQG Phong Nha – Kẻ Bàng nói riêng.
+ Du lịch sinh thái phải được nhận thức một cách đầy đủ, phải được xem là công cụ thiết thực trong việc bảo tồn và phát triển bền vững, bảo tồn để phát triển, phát triển không đe dọa đến lợi ích của các thế hệ mai sau;
+ Cần thay đổi quan niệm của mọi người về bảo tồn và phát triển. Giáo dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức của các đối tượng trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng tài nguyên đến các tầng lớp nhân dân.
+ Tại các Vườn quốc gia nhưng du lịch sinh thái vẫn mới mẻ và có vị trí độc lập. Chính vì thế trong việc đánh giá tài nguyên, nghiên cứu thị trường, chiến dịch quảng bá, chia sẻ lợi ích cộng đồng, phát triển chuỗi giá trị, đào tạo nhân lực, chính sách đầu tư phát triển... cũng cần có phương pháp tiếp cận riêng.
+ Cần có cơ chế quản lý phù hợp trong đó có sự tham gia của người dân địa phương để có thể quản lý tài nguyên và hoạt động du lịch hiệu quả. Đảm bảo tính