Đánh giá kết quả và tác động của một số mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2006 - 2011 - 2



các kết quả nghiên cứu cho nông dân; Tăng cường đào tạo, huấn luyện và nâng cao nhận thức cho các chủ rừng; Phát triển tổ chức và tăng cường xã hội hoá công tác khuyến lâm.

Trong những năm qua, Nhà nước có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội, có liên quan đến phát triển lâm nghiệp như các chương trình 327, 661, 135, 134, 30a,… với mục tiêu xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững cho miền núi, thông qua nhiều phương pháp tiếp cận chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật khác nhau, trong đó nhiều mô hình khuyến lâm đã được triển khai xây dựng ở các địa phương. Kinh phí cho hoạt độn

g khuyến lâm ngày càng tăng, tính từ 2006 - 2011 đã có trên 98 tỷ đồng từ kinh phí khuyến lâm Trung ương được đầu tư triển khai cho các mô hình khuyến lâm tại địa phương, trong đó tỉnh Quảng Trị được đầu tư với kinh phí khoảng trên 1,8 tỷ đồng cho các mô hình khuyến lâm. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu đánh giá nào một cách có hệ thống và đầy đủ về các mô hình khuyến lâm đã được xây dựng cũng như những tác động của nó, những khó khăn, bất cập trong quá trình chuyển giao là gì? Qua đó, cung cấp cho các nhà quản lý những thông tin đầu đủ, khách quan để hoạch định những chính sách, kế hoạch khuyến lâm phù hợp cho giai đoạn tiếp theo.

Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Đánh giá kết quả và tác động của một số mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2006 - 2011” được thực hiện là cần thiết và có ý nghĩa cả về khoa học và thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc xây dựng các mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng Trị.



Chương 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

1.1. Khái niệm và một số định nghĩa về khuyến lâm

- Khuyến lâm là cách đào tạo và rèn luyện tay nghề cho nông dân, đồng thời giúp cho họ hiểu được những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, những thông tin thị trường, để họ có đủ khả năng tự giải quyết được các vấn đề của gia đình và cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn.

Đánh giá kết quả và tác động của một số mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2006 - 2011 - 2

- Khuyến lâm là một quá trình chuyển giao kiến thức, đào tạo kỹ năng và những điều kiện vật chất cần thiết cho nông dân để họ có đủ khả năng quản lý và bảo vệ được nguồn tài nguyên rừng tại cộng đồng.

- Khuyến lâm là cách giáo dục ngoài học đường cho nông dân. Là quá trình vận động, quảng bá, khuyến cáo,.. cho nông dân theo nguyên tắc tự nguyện, không áp đặt; đồng thời đó là quá trình tiếp thu kiến thức và kỹ năng một cách dần dần và tự giác của nông dân.

1.2. Lịch sử và hoạt động khuyến nông lâm ở trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1. Lịch sử và hoạt động khuyến nông lâm trên thế giới

1.2.1.1. Anh

Ngày 01 Tháng Chín năm 1919, Luật Lâm nghiệp đã có hiệu lực và Ủy ban Lâm nghiệp (Khuyến lâm) được thành lập, chịu trách nhiệm về rừng ở Anh, Scotland, Wales và Ireland. Toàn bộ tổ chức thành mười phòng với 29 nhân viên cấp trung ương và cấp huyện và 110 kiêm lâm viên.

Sau 10 năm đã có 152 khu rừng được quản lý với diện tích khoảng 600.000 mẫu Anh và hơn 138,000 mẫu Anh đã được trồng.

Năm 1939, Ủy ban Lâm nghiệp tách thành Cục Kiểm lâm, và Cục Khuyến lâm. Sau 90 năm hệ thống khuyến lâm được thành lập, hoạt động khuyến lâm đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng của toàn nước Anh lên 5%, hiện có khoảng

2.982.000 ha, chiếm 13% diện tích đất của nước Anh (dẫn theo Forestry Commission [16]).



1.2.1.2. Nhật Bản

Hoạt động khuyến nông lâm của Nhật Bản được hình thành và đi vào hoạt động từ những năm 1900. Lúc đầu khuyến nông lâm được thực hiện bởi các trường học và các trang trại của chính phủ thông qua việc tiến hành thử nghiệm và đưa các công nghệ mới vào sản xuất. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, lâm nghiệp hoạt động khuyến nông lâm ở Nhật đã được chính thức hóa bằng pháp luật và đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm được xây dựng và củng cố. Các giai đoạn tiếp theo, do sự cải cách hệ thống xã hội, nông dân đã buộc phải áp dụng các hướng dẫn kỹ thuật và kiến nghị của cán bộ khuyến nông lâm - được gọi là "Khuyến nông bắt buộc". Đến năm 1948, dịch vụ khuyến nông chính thức được khôi phục tại Nhật Bản với tên gọi là “Dịch vụ Khuyến nông Hợp tác xã” và phát triển đến nay.

Dịch vụ khuyến nông tại Nhật Bản có ba vai trò chính: (1) là để cải thiện kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp, (2) là cải thiện các tiêu chuẩn sống của cộng đồng dân cư ở các vùng nông thôn và (3) là giáo dục thế hệ trẻ ở nông thôn.

Hệ thống tổ chức: Bộ Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Thủy sản (MAFF) theo Hà Thanh Tùng (2010) [13] là cơ quan giúp Chính phủ Nhật bản thực hiện dịch vụ khuyến nông lâm trên phạm vi toàn quốc. Đội ngũ cán bộ khuyến nông lâm của Nhật Bản hiện nay có khoảng 10.000 người, Đội ngũ cán bộ này làm việc như các chuyến gia cố vấn và được phân bổ chủ yếu ở 47 cơ quan khuyến nông cấp tỉnh và 630 cơ quan khuyến nông lâm cấp huyện. Mỗi tỉnh có một trung tâm đào tạo nông dân.

Chính sách hỗ trợ:

+ Chính phủ tạo hành lang pháp lý về khuyến nông lâm, phát triển nông thôn, với phương châm “thể chế mạnh và minh bạch”;

+ Kinh phí: hỗ trợ 40% kinh phí cho các hoạt động dịch vụ khuyến nông của các tổ chức khuyến nông địa phương. Phần còn lại là sự đóng góp của người dân hoặc doanh nghiệp và thậm chí là sự huy động của tổ chức khuyến nông lâm.

1.2.1.3. Mỹ

Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nước Mỹ được hình thành từ năm 1843 theo tác giả Alfred Charles True (1928) [15] viết trong cuốn Lịch sử khuyến nông



nước Mỹ.. Khởi đầu tại NewYork nhà nước cấp kinh phí cho Hội đồng bang thuê những nhà khoa học nông nghiệp có kỹ năng thực hành tốt làm giảng viên khuyến nông xuống các thôn xã đào tạo những kiến thức về khoa học và thực hành nông lâm nghiệp cho nông dân.

Từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước Chính phủ Mỹ đã quan tâm đến công tác đào tạo khuyến nông lâm trong trường đại học. Năm 1891 bang NewYork đã hỗ trợ 10.000 USD cho công tác đào tạo khuyến nông lâm đại học. Đến năm 1907 ở Mỹ đã có 42 trường/39 bang có đào tạo khuyến nông lâm. Năm 1910 có 35 trường có bộ môn khuyến nông, khuyến lâm.

Năm 1914, Mỹ ban hành luật khuyến nông lâm và thành lập Hệ thống khuyến nông khuyến lâm quốc gia. Giai đoạn này đã có 8861 Hội nông dân, với khoảng 3.050.150 hội viên.

1.2.1.4. Ấn Độ

Hội khuyến nông Ấn độ được thành lập năm 1820 (William Carey khởi sướng) và đề xuất cải tiến ngành Nông nghiệp. Cục Lâm nghiệp Hoàng gia được thành lập ở Ấn Độ vào năm 1864. Lâm luật được thông qua năm 1865, lúc đó Luật này chỉ đơn giản là thiết lập ranh giới chủ rừng, đến 1878 nó được bổ sung và hoàn thiện. Hệ thống khuyến nông lâm Ấn Độ được thành lập tương đối sớm vào năm 1960. Trong những năm 1970, Ấn Độ tuyên bố chiến lược dài hạn cho phát triển lâm nghiệp với mục tiêu: giảm xói mòn đất và lũ lụt, cung cấp cho nhu cầu ngày càng tăng của các sản phẩm ngành công nghiệp gỗ trong nước và cung cấp các nhu cầu chất đốt của của dân cư nông thôn, gỗ nhỏ, rừng sản xuất. Ủy ban Quốc gia về Lâm nghiệp được thành lập năm 1976, các sở lâm nghiệp được tổ chức lại. Thành lập Ủy ban lâm nghiệp xã hội, với mục tiêu thúc đẩy các hoạt động lâm nghiệp truyền thống và phát triển rừng cộng đồng thông qua các hoạt động của cơ quan lâm nghiệp cộng đồng chịu trách nhiệm các trang trại lâm nghiệp, quản lý gỗ, khuyến lâm, trồng rừng.

Trong những năm 1980, lâm nghiệp xã hội được khuyến khích bởi các cơ quan lâm nghiệp cộng đồng. Chính sách lâm nghiệp quốc gia được phê duyệt năm



1988. một trong những chính sách đó là Chương trình quản lý rừng, trong đó gắn trách nhiệm cụ thể cho Bộ Lâm nghiệp, từ quản lý các lô rừng cụ thể. Đặc biệt, việc bảo vệ rừng là trách nhiệm của người dân. Đến năm 1992, mười bảy tiểu bang của Ấn Độ tham gia vào quản lý rừng. Năm 2006, Luật chủ rừng được ban hành (dẫn theo [18]).

1.2.1.5. Trung Quốc

Hệ thống khuyến nông khuyến lâm Trung Quốc được thành lập năm 1970 nhưng công tác đào tạo khuyến nông Trung Quốc rất được quan tâm.

Trung Quốc tổ chức HTX và Công xã nhân dân từ 1951 – 1978 nên giai đoạn này công tác khuyến nông chỉ triển khai đến HTX. Nội dung khuyến nông giai đoạn này coi trọng phổ biến đường lối chủ trương nông nghiệp của Đảng và Chính phủ cũng như chuyển giao TBKT nông nghiệp, xây dựng các mô hình điểm trình diễn đến thăm quan học tập và áp dụng.

Từ năm 1995 trở đi, Trung Quốc quyết định áp dụng những chính sách tập trung hỗ trợ nông nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Các chương trình khuyến nông lâm chuyển giao giống cây rừng, lúa lai chất lượng cao.

Hai mươi năm gần đây, Nhà nước Trung Quốc đã đầu tư đồng bộ cả về hệ thống tổ chức, cơ sở thiết bị nghiên cứu cho khuyến nông khuyến lâm, nhờ vậy điều kiện làm việc và mức sống của khuyến nông lâm viên được nâng cao.

Tác giả Phạm Kim Oanh (2004) [10] cho biết tính đến hết năm 1997, trên toàn đất nước Trung Quốc, đã có tới hơn 48.500 tổ chức khuyến nông khuyến lâm, với hơn 317 nghìn khuyến nông - khuyến lâm viên (từ trung ương tới tỉnh, huyện xã và làng bản). Khuyến nông lâm viên phối hợp hoạt động cùng khoảng 400 nghìn tổ chức nông dân (chiếm 20% số làng ở Trung Quốc) với hơn một triệu nông dân là kỹ thuật viên và với 6,6 triệu mô hình trình diễn của nông dân.

1.2.1.6. Cămpuchia

Công tác khuyến nông lâm của Campuchia do Cục Khuyến nông (DAE) thuộc Tổng cục Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) đảm nhiệm. DAE có chức năng quản lý nhà nước về khuyến nông, phát



triển hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến cấp huyện, phù hợp với nhu cầu của Campuchia. Một mục tiêu chiến lược trong phát triển khuyến nông là xây dựng một hệ thống khuyến nông tới các xã và thôn bản. DAE triển khai, thúc đẩy và điều phối các hoạt động khuyến nông thông qua các bộ phận kỹ thuật và các tổ chức, cơ quan nghiên cứu, cơ quan cấp tỉnh, phi chính phủ và khu vực tư nhân với mục tiêu là lợi ích tốt nhất của các nhà sản xuất, người nông dân. Hoạt động khuyến nông lâm tại Campuchia sử dụng phương pháp tiếp cận phát triển hệ thống canh tác qui mô trang trại, đào tạo và khuyến nông có sự tham gia và cách tiếp cận mở rộng. Trong đó tập trung vào (i) Lập kế hoạch và đánh giá có sự tham gia, (ii) Phát triển công nghệ có sự tham gia; (iii) Đào tạo và mở rộng; (iv) Phát triển mở rộng và phổ biến tài liệu;

(v) Phát triển các tổ chức nông dân (dẫn theo [11]).

1.2.1.7. Inđônêsia

Là một nước có nền nông nghiệp tương đối phát triển trong khu vực. Trung tâm khuyến lâm (thuộc Bộ Lâm nghiệp) quản lý các vấn đề liên quan đến hoạt động khuyến lâm từ các dịch vụ đến phát triển lâm nghiệp bền vững. Theo tác giả Nur Hidayat (2009) [17], hiện nay Inđônêsia có trên 30.000 cán bộ khuyến nông, trong đó có trên 5.200 khuyến lâm viên.

1.2.1.8. Malaysia

Khi nghiên cứu về hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia, tác giả Hà Thanh Tùng (2011)[14] cho biết hình thức triển khai hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia được tổ chức dưới dạng dự án theo các chuyên ngành và khu vực riêng theo hình thức tư vấn cho trưởng làng/bản hoặc người đứng đầu doanh nghiệp. Mở các lớp tập huấn cũng được chú trọng trong hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia với các khóa tập huấn mang tính quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và theo từng chuyên đề. Hình thức tập huấn chủ yếu là "đạo tạo tại hiện trường" và "cầm tay chỉ việc". Về nội dung hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia tập trung vào tuyên truyền, giáo dục và đào tạo các kỹ thuật liên quan đến giấp chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm như GAP, GMP, truy xuất nguồn gốc, và trang trại hữu cơ.



1.2.1.9. Myanmar

Là đất nước nông nghiệp đóng góp 45,1% GDP, hoạt động khuyến nông lâm được xem là giải pháp hàng đầu để phát triển nông lâm nghiệp bền vững. Các hoạt động chủ yếu ở nước này là xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn, và thông tin tuyên truyền. Tại Mi-an-ma đặc biệt quan tâm hệ thống nhóm 10 hộ nông dân, trong đó có 1 nhóm trưởng thường xuyên liên hệ với cán bộ khuyến nông và chuyên gia. Hệ thống tổ chức khuyến nông lâm của Mi-a-ma được tổ chức ở Trung ương và 5 trung tâm ở 5 vùng lãnh thổ, các cán bộ khuyến nông lâm chủ yếu trực thuộc 5 trung tâm vùng này. Các hoạt động xây dựng mô hình, tập huấn cũng được tổ chức tại các trung tâm vùng (dẫn theo [7]).

1.2.1.10. Philippin

Hệ thống khuyến nông khuyến lâm được thành lập năm 1976. Hoạt động khuyến nông lâm của Phi-lip-pin do Viện đào tạo nông nghiệp trực thuộc Cục Nông nghiệp đảm nhiệm và triển khai các hoạt động về khuyến nông khuyến lâm. Tại các vùng có 17 trung tâm đào tạo, không tổ chức theo địa danh hành chính. Hoạt động khuyến nông của Philippin được gọi là “khuyến nông điện tử” theo nhận xét của Hà Thanh Tùng (2011) [7]. Với hình thức chuyển tải thông tin và chuyển giao công nghệ chủ yếu thông qua các phương tiện điện tử như Internet, đài, báo điện tử, truyền hình, băng video và cát-sét. Hầu hết các nội dung hoạt động khuyến nông lâm đều tập trung vào sản xuất nông lâm nghiệp hữu cơ, giảm thiểu biến đổi khí hậu và phát triển sinh kế bền vững. Chính phủ chi phí xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, băng đĩa hình, internet phục vụ khuyến nông. Trong xây dựng mô hình, Chính phủ chỉ hỗ trợ 50% chi phí giống, Cán bộ khuyến lâm của Philippin chủ yếu được đào tạo từ Trường Đại học Los Banõs.

1.2.1.11. Lào

Lào có mô hình khuyến lâm tương tự như mô hình khuyến lâm của Việt Nam. Mọi hoạt động khuyến lâm của Lào được điều hành bởi bộ Lâm nghiệp Lào. Cán bộ khuyến lâm của Lào được đào tạo chủ yếu tại khoa Lâm nghiệp trường Đại học quốc gia Viêng Chăn (dẫn theo [2]), các cán bộ cấp cao đều được sự hỗ trợ đào



tạo tại Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, Viện khoa học Lâm nghiệp Việt nam.

1.2.1.12. Thái Lan

Thái Lan là quốc gia nông nghiệp với trên 60% dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Điều kiện đất đai, khí hậu nóng ẩm gần tương đồng Việt nam. Thái Lan là quốc gia hoạt động khuyến nông lâm khá tiêu biểu. Hệ thống khuyến nông nhà nước được thành lập năm 1967.

Hiện Thái lan có 3 tổ chức chính hoạt động có liên quan đế khuyến lâm, đó là Cục lâm nghiệp Hoàng gia, Hội nông dân, Hội phát triển cộng đồng. Hoạt động khuyến lâm được thực hiện và chỉ đạo bởi các Phòng lâm nghiệp Quốc gia, bao gồm 21 cơ quan cấp vùng và 72 cơ quan cấp tỉnh (dẫn theo [9]).

Cán bộ khuyến lâm của Thái lan chủ yếu được đào tạo từ Trường Đại học Kasetsart và Trung tâm Đào tạo Lâm nghiệp cộng đồng RECOFTC.

1.2.2. Lịch sử và hoạt động khuyến nông lâm ở Việt Nam

1.2.2.1 Trước năm 1993

Cùng với sự phát triển khuyến nông trên thế giới, khuyến nông Việt Nam hình thành, phát triển.

Tác giả Nguyễn Chí Hải (dẫn theo [8]) khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến cho biết với tư tưởng trọng nông là tư tưởng chủ đạo và chính sách khuyến nông của nhà nước phong kiến. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã có nhiều biện pháp để khuyến khích nông nghiệp phát triển, từ việc khuyến khích khai hoang mở rộng diện tích, thực hiện chính sách "Ngụ binh ư nông", miễn giảm thuế cho nông dân những năm mất mùa hay sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh giữ nước để nuôi dưỡng sức dân, cho đến việc nhà vua cày ruộng "tịch điền", làm lễ trừ sâu, lễ tế côn trùng, xem gặt lúa,... Đều nói lên sự quan tâm thường trực của nhà nước phong kiến đối với việc phát triển nông nghiệp. Có thể nói, chính sách khuyến nông chính là một trong những chuẩn mực cơ bản để đánh giá năng lực và sự thịnh suy của các triều đại phong kiến Việt Nam.

- Theo Cổng thông tin điển tử tỉnh Hà Nam (dẫn theo [7]) và tác giả Đào Xuân Ánh (2008) [1] khẳng định năm 987, Lê Hoàn là ông vua đầu tiên dưới chế độ

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 16/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí