Đánh giá hoạt động tư vấn các triệu chứng thông thường tại nhà thuốc trên địa bàn thành phố Huế - 2


Năm 2011, Cục quản lý Dược Việt Nam đã ban hành nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành nhà thuốc tốt (GPP) nhằm xây dựng một chuẩn mực thiết yếu cho hoạt động bán lẻ thuốc, trong đó có quy định rò nhà thuốc phải tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân [7]. Tuy đã có một số nghiên cứu về hoạt động tư vấn tại các nhà thuốc, nhưng các nghiên cứu nâng cao chất lượng tư vấn còn rất ít. Nghiên cứu được thực hiện với mong muốn cung cấp minh chứng về tình hình hoạt động tư vấn sử dụng thuốc không kê đơn tại nhà thuốc, đồng thời xác định hiệu quả của biện pháp can thiệp cải thiện chất lượng có hiệu quả. Vì vậy, nghiên cứu này được tiến hành với hai mục tiêu chính là:

1. Đánh giá tình hình tư vấn sử dụng thuốc không kê đơn tại các nhà thuốc trên địa bàn thành phố Huế bằng phương pháp quan sát trực tiếp.

2. Đánh giá hiệu quả của can thiệp nhằm nâng cao kĩ năng và kiến thức tư vấn sử dụng thuốc không kê đơn của nhân viên nhà thuốc tại các nhà thuốc trên địa bàn thành phố Huế.


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN


1.1. Tình hình chung về sử dụng thuốc trên thế giới và Việt Nam

1.1.1. Tình hình sử dụng thuốc trên thế giới

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ngành công nghiệp dược phẩm cũng có nhiều tiến bộ đáng kể với ngày càng nhiều mặt hàng thuốc xuất hiện trên thị trường cũng như việc người dân có thể tiếp cận dễ dàng các thuốc phòng và chữa bệnh theo nhu cầu. Song song với điều đó, thì nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe do dùng thuốc không đúng, lạm dụng thuốc, sử dụng thuốc bừa bãi, ... cũng là một thách thức lớn cho ngành y tế các nước nói riêng và toàn thế giới nói chung.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2011 [60] về sử dụng thuốc cho thấy:

Sử dụng thuốc không hợp lý đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng toàn cầu dẫn đến sự lãng phí và gây hại cho người bệnh. Ở các nước đang phát triển và các nước đang trong thời kì chuyển đổi, trong lĩnh vực chăm sóc ban đầu có ít hơn 40% bệnh nhân ở khu vực công và 30% bệnh nhân ở khu vực tư nhân được điều trị phù hợp với các hướng dẫn điều trị chuẩn. Kháng sinh bị sử dụng sai và sử dụng quá mức ở tất cả các nơi trên thế giới. Một số nước tại châu Âu có lượng sử dụng kháng sinh trên đầu người cao gấp 3 lần so với các nước khác. Ở các nước đang phát triển và chuyển đổi, trong khi chỉ có 70% trường hợp viêm phổi được chỉ định kháng sinh thích hợp, thì một nửa số trường hợp nhiễm trùng cấp tính đường hô hấp trên do vius và tiêu chảy virus được sử dụng kháng sinh không hợp lý.

Đánh giá hoạt động tư vấn các triệu chứng thông thường tại nhà thuốc trên địa bàn thành phố Huế - 2

Chỉ có khoảng 50% bệnh nhân tuân thủ điều trị trên thế giới, và tỷ lệ này thấp hơn ở các nước đang phát triển và chuyển tiếp, nơi có đến 50% số trường hợp biến cố cấp phát thuốc không đầy đủ (về hướng dẫn bệnh nhân và ghi nhãn thuốc được cấp phát). Hậu quả tai hại của việc sử dụng thuốc không hợp lý bao gồm gia tăng biến cố bất lợi của thuốc, tăng nhanh đề kháng kháng sinh (do việc sử dụng quá mức kháng sinh), và sự lây lan các bệnh truyền nhiễm qua đường máu như HIV hay viêm gan


virus B/C, những điều này làm trầm trọng thêm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cũng như tiêu tốn hàng tỷ đô la mỗi năm.

Chưa đến một nửa số quốc gia trên thế giới đang thực hiện các chính sách cơ bản cần thiết để đảm bảo sử dụng hợp lý các loại thuốc như: giám sát sử dụng thuốc, cập nhật hướng dẫn điều trị và có trung tâm thông tin thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn (OTC), tổ chức các hội đồng thuốc và điều trị tại hầu hết các bệnh viện và khu vực.

1.1.2. Tình hình sử dụng thuốc tại Việt Nam

Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, khi có những bất thường về sức khỏe, phổ biến là những bệnh thông thường có 60 đến 85% người dân thường đến các điểm bán lẻ như quầy thuốc, nhà thuốc để tìm kiếm sự giúp đỡ và mua thuốc điều trị trước khi đến với các loại hình dịch vụ y tế khác nếu không khỏi bệnh [9]. Điều này dẫn đến tình hình sử dụng thuốc của Việt Nam ngày càng trở nên phức tạp, cơ sở bán lẻ thuốc đóng vai trò quan trọng đảm bảo cung ứng trực tiếp cho người dân các thuốc có chất lượng và cung cấp các lời khuyên sức khỏe cũng như hướng dẫn sử dụng thuốc, tránh hiện tượng sử dụng sai thuốc, lạm dụng thuốc, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người bệnh và gây nhiều hậu quả đáng tiếc về sau.

Theo kết quả khảo sát về việc bán thuốc kháng sinh ở các hiệu thuốc vùng nông thôn và thành thị các tỉnh phía Bắc cho thấy nhận thức về kháng sinh và kháng kháng sinh của người bán thuốc và người dân còn thấp đặc biệt ở vùng nông thôn. Trong tổng số 2953 nhà thuốc được điều tra: có 499/2083 hiệu thuốc ở thành thị (chiếm tỷ lệ 24%) và 257/870 hiệu thuốc ở nông thôn (chiếm tỷ lệ 29,5%) có bán đơn thuốc kê kháng sinh. Kháng sinh đóng góp 13,4% (ở thành thị) và 18,7% (ở nông thôn) trong tổng doanh thu của hiệu thuốc. Phần lớn kháng sinh được bán mà không có đơn 88% (thành thị) và 91% (nông thôn) [5]. Nhiều nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng có 70 – 80% thuốc kháng sinh được bán bởi các cơ sở bán lẻ thuốc mà không cần đơn của bác sĩ và tư vấn đưa ra rất ít [21]. Điều này dẫn đến mức độ kháng kháng sinh ở Việt Nam ngày càng tăng lên và trở thành một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Theo thông


báo của WHO: Việt Nam là một trong những nước có tình hình kháng kháng sinh cao nhất thế giới [5], [40].

Bên cạnh việc sử dụng kháng sinh tùy tiện và không đúng theo nguyên tắc sử dụng, việc sử dụng corticosteroid bừa bãi cũng xảy ra khá phổ biến ở Việt Nam gây nên nhiều vấn đề đáng lo ngại, do đây là một nhóm thuốc có nhiều tác dụng phụ, có thể để lại hậu quả nghiêm trọng cho bệnh nhân nếu sử dụng không đúng. Một nghiên cứu thực hiện trên 50 nhà thuốc tư nhân tại tỉnh Bình Dương năm 2014 cho thấy 100% đồng ý bán thuốc corticosteroid cho khách hàng (KH) mà không cần đơn, trong đó 28% số nhà thuốc không đưa ra bất kỳ lời hướng dẫn sử dụng nào cho KH và chỉ có 6% số nhà thuốc quan tâm, lưu ý cho KH về tác dụng phụ của thuốc [27].

Như vậy trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về sử dụng thuốc thiếu an toàn, hiệu quả, hợp lý trong cộng đồng. Để cải thiện tình hình này, cần có nhiều biện pháp can thiệp đến từ cơ quan chức năng, trong đó có vai trò không nhỏ của các cơ sở bán lẻ thuốc. Các cơ sở bán lẻ thuốc cần chú trọng nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như kỹ năng nghề nghiệp của dược sĩ bán thuốc, góp phần cải thiện và nâng cao tình hình sử dụng thuốc trong cộng đồng.

1.2. Tư vấn sử dụng thuốc bởi dược sĩ tại nhà thuốc

1.2.1. Khái niệm nhà thuốc

Theo Liên đoàn dược phẩm quốc tế (FIP) [44]: nhà thuốc cộng đồng là khu vực hành nghề dược mà ở đó các loại thuốc và các sản phẩm liên quan được bán hay cung cấp trực tiếp cho cộng đồng từ một đại lý bán lẻ (hay thương mại khác) được thiết kế chủ yếu cho mục đích cung cấp thuốc. Việc bán hoặc cung cấp các loại thuốc có thể là theo yêu cầu hoặc theo đơn của bác sĩ (hoặc nhân viêc chăm sóc sức khỏe khác), hoặc không kê đơn OTC.

Theo quy định của Luật Dược số 105/2016/QH13 ngày 06/4/2016 thì ở Việt Nam hiện nay có 4 loại cơ sở bán lẻ gồm: Nhà thuốc, quầy thuốc, đại lý bán lẻ thuốc của doanh nghiệp và tủ thuốc trạm y tế [22].

Bộ Y tế quy định các nhà thuốc phải đạt các nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt nhà thuốc” (GPP) [7].


1.2.2. Vai trò của người dược sĩ tại nhà thuốc

Vai trò của người dược sĩ tại nhà thuốc được thể hiện thông qua hình ảnh dược sĩ cộng đồng. Theo WHO, người dược sĩ nhà thuốc không những là người cung ứng thuốc có chất lượng cho cộng đồng mà còn là người giao tiếp người giáo dục sức khỏe. Bởi người dược sĩ là điểm tiếp cận đầu tiên của người bệnh, dược sĩ nên khuyên bệnh nhân không nên dùng thuốc nếu chưa cần thiết. Người dược sĩ phải biết lắng nghe khách hàng và đặt câu hỏi phù hợp để khai thác thông tin. Cung cấp thông tin về thuốc cho khách hàng và tư vấn cách điều trị thích hợp.

Hình ảnh hiện tại về dược sĩ nhà thuốc tại Việt Nam còn nặng vềngười cung ứng thuốc. Để có thể chuyển đổi hình ảnh dược sĩ nhà thuốc sang người giao tiếp hay người giáo dục sức khỏecho cộng đồng, đòi hỏi nhiều thay đổi hệ thống từ chương trình đào tạo dược sĩ, quy định về hành nghề nhà thuốc và các phương pháp thích hợp làm thay đổi quan niệm của cộng đồng về vai trò của dược sĩ nhà thuốc [59].

1.2.3. Khái niệm và nguyên tắc “Thực hành tốt nhà thuốc” (GPP)

"Thực hành tốt nhà thuốc" (Good Pharmacy Practice, viết tắt: GPP) là văn bản đưa ra các nguyên tắc, tiêu chuẩn cơ bản trong thực hành nghề nghiệp tại nhà thuốc của dược sĩ và nhân sự dược trên cơ sở tự nguyện tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức và chuyên môn ở mức cao hơn những yêu cầu pháp lý tối thiểu.

Khi xây dựng một nhà thuốc đạt chứng nhận “Thực hành tốt nhà thuốc - GPP” phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc chính sau:

Đặt lợi ích của người bệnh và sức khoẻ của cộng đồng lên trên hết.

Cung cấp thuốc đảm bảo chất lượng kèm theo thông tin về thuốc, tư vấn thích hợp cho người sử dụng và theo dòi việc sử dụng thuốc của họ.

Tham gia vào hoạt động tự điều trị, bao gồm cung cấp thuốc và tư vấn dùng thuốc, tự điều trị triệu chứng của các bệnh đơn giản.

 Góp phần đẩy mạnh việc kê đơn phù hợp, kinh tế và việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, có hiệu quả [3].


1.2.4. Một số tiêu chuẩn và yêu cầu chính của GPP Việt Nam liên quan đến hoạt động tư vấn sử dụng thuốc

1.2.4.1. Về các bước cơ bản trong hoạt động bán thuốc

- Người bán lẻ hỏi người mua những câu hỏi liên quan đến bệnh, đến thuốc mà người mua yêu cầu.

- Người bán lẻ tư vấn cho người mua về lựa chọn thuốc, cách dùng thuốc, hướng dẫn cách sử dụng thuốc bằng lời nói. Trường hợp không có đơn thuốc kèm theo, người bán lẻ phải hướng dẫn sử dụng thuốc thêm bằng cách viết tay hoặc đánh máy, in gắn lên đồ bao gói.

- Người bán lẻ cung cấp các thuốc phù hợp, kiểm tra, đối chiếu thuốc bán ra về nhãn thuốc, cảm quan về chất lượng, số lượng, chủng loại thuốc.

1.2.4.2. Về tư vấn cho người mua

- Người mua thuốc cần nhận được sự tư vấn đúng đắn, đảm bảo hiệu quả điều trị và phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng.

- Người bán lẻ phải xác định rò trường hợp nào cần có tư vấn của người có chuyên môn phù hợp với loại thuốc cung cấp để tư vấn cho người mua thông tin về thuốc, giá cả và lựa chọn các thuốc không cần kê đơn.

- Đối với người bệnh đòi hỏi phải có chẩn đoán của thầy thuốc mới có thể dùng thuốc, người bán lẻ cần tư vấn để bệnh nhân tới khám thầy thuốc chuyên khoa thích hợp hoặc bác sĩ điều trị.

- Đối với những người mua thuốc chưa cần thiết phải dùng thuốc, nhân viên bán thuốc cần giải thích rò cho họ hiểu và tự chăm sóc, tự theo dòi triệu chứng bệnh [3].

1.2.5. Các loại tư vấn sử dụng thuốc

1.2.5.1. Tư vấn thuốc theo đơn

Dược sĩ dựa theo đơn thuốc của bác sĩ kê và khai thác thêm các thông tin của bệnh nhân để xác định các vấn đề trong đơn thuốc (nếu có) và trao đổi với bác sĩ hay bệnh nhân để giải quyết [8]. Nếu dược sĩ không phát hiện bất kì vấn đề gì thì có thể bán thuốc theo đơn cho bệnh nhân đồng thời tư vấn cách sử dụng từng loại thuốc trong đơn. Kĩ thuật tư vấn thuốc theo đơn đòi hỏi sự tương tác giữa dược sĩ (DS) và


bệnh nhân (BN) chứ không đơn thuần chỉ là sự truyền tải thông tin một chiều. DS thu thập các thông tin thiết yếu về BN và từ đó điều chỉnh cách tư vấn cho thích hợp. Kĩ thuật này khuyến khích BN tham gia tích cực vào quá trình tư vấn. Và DS nhanh chóng xác định những thông tin gì BN đã biết (thông qua các cán bộ y tế (CBYT) khác) và chỉ tập trung vào các thông tin mà BN chưa biết. Điều chỉnh thông tin tư vấn cho phù hợp với mục đích của từng BN. Trong một số trường hợp, việc nhắc lại các thông tin do các CBYT khác truyền tải cho BN giúp tăng sự tuân thủ điều trị của BN [31].

1.2.5.2.Tư vấn thuốc không cần kê đơn

Thuốc OTC là thuốc bệnh nhân có thể mua mà không cần đơn thuốc của bác sĩ. Thuốc OTC là các thuốc có độc tính thấp, trong quá trình bảo quản và khi vào trong cơ thể người không tạo ra các sản phẩm phân hủy có độc tính, không có những phản ứng có hại nghiêm trọng đã được biết hoặc được Tổ chức Y tế thế giới, cơ quan quản lý có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài khuyến cáo có phản ứng có hại dẫn đến một trong những hậu quả sau đây:

- Tử vong

- Đe dọa tính mạng

- Buộc người bệnh phải nhập viện để điều trị hoặc kéo dài thời gian nằm viện của người bệnh

- Để lại di chứng nặng nề hoặc vĩnh viễn cho người bệnh

- Gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi

- Bất kỳ phản ứng có hại khác gây hậu quả nghiêm trọng về mặt lâm sàng cho người bệnh do người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh đánh giá, nhận định.

Thuốc OTC có phạm vi liều dùng rộng, an toàn cho các nhóm tuổi, ít có ảnh hưởng đến việc chẩn đoán và điều trị các bệnh cần theo dòi lâm sàng. Thuốc được chỉ định trong điều trị các bệnh không phải là bệnh nghiêm trọng và người bệnh có thể tự điều trị. Đường dùng, dạng thuốc đơn giản mà người sử dụng có thể tự dùng (chủ yếu là đường uống, dùng ngoài da) với hàm lượng, nồng độ thích hợp cho việc tự điều trị.


Thuốc ít tương tác với các thuốc khác và thức ăn, đồ uống thông dụng, ít có khả năng gây tình trạng lệ thuộc thuốc và nguy cơ lạm dụng thuốc [4].

Đối với trường hợp BN mua thuốc OTC, DS cần đặt các câu hỏi thích hợp để khai thác một cách hệ thống các thông tin về bệnh, thuốc của bệnh nhân để từ đó quyết định là nên khuyên BN đi khám bác sĩ hay cùng thảo luận với BN chọn thuốc OTC thích hợp. Nên mở đầu bằng các câu hỏi mở để thu thập được đầy đủ thông tin, rồi sau đó có thể tiến hành các câu hỏi đóng để thu thập các thông tin cụ thể, chính xác. DS tư vấn cụ thể cách sử dụng thuốc OTC, thường đưa thêm các lời khuyên về chế độ ăn, luyện tập, vệ sinh [6].

Tháng 5/2017 Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 07/2017/TT – BYT về Danh mục thuốc không kê đơn mới, thay thế thông tư 23/2014/TT – BYT, gồm 243 hoạt chất thuốc hóa dược và sinh phẩm và các loại thuốc cổ truyền và dược liệu [4]. Theo đó, đối với tiêu chí lựa chọn thuốc vào danh mục ngoài việc dựa trên nguyên tắc mới là bảo đảm việc tiếp cận thuốc kịp thời cho người dân thì còn bổ sung một số tiêu chí so với trước đây, như:

- Thuốc ít có nguy cơ bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích làm ảnh hưởng đến sự an toàn của người sử dụng.

- Thuốc đã có thời gian lưu hành tại Việt Nam tối thiểu từ 05 năm trở lên.

Danh mục mới có sự thay đổi và điều chỉnh chỉ định, liều dùng một số thuốc và loại bỏ khỏi danh mục các thuốc không còn phù hợp.

1.2.6. Các bước tư vấn sử dụng thuốc

1.2.6.1. Thiết lập mối quan hệ với bệnh nhân

Giới thiệu bản thân với BN, giải thích mục đích và thời gian buổi tư vấn, hỏi sự chấp thuận tham gia tư vấn của bệnh nhân, xác định các xưng hô hay ngôn ngữ lựa chọn.

1.2.6.2. Thu thập thông tin từ bệnh nhân

Thu thập, đánh giá kiến thức của bệnh nhân về vấn đề sức khỏe và các thuốc sử dụng, khả năng thể chất và nhận thức của bệnh nhân để sử dụng thuốc hợp lý, đặt câu

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/06/2022