Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng trong thực hành xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì và Đan Phượng, Hà Nội - 2


STT Nội dung bảng Trang

3.17 So sánh kiến thức hẹn tái khám của CBYT trước-sau can thiệp…….. 77

3.18 So sánh thực hành hỏi xác định dấu hiệu bệnh của CBYT trước-sau

can thiệp……………………………………………………………… 78

3.19 So sánh thực hành thăm khám của CBYT trước-sau can thiệp……… 79

3.20 So sánh thực hành kê đơn kháng sinh cho trẻ ho, cảm lạnh trước-sau

can thiệp……………………………………………………………… 80

3.21 So sánh thực hành kê đơn kháng sinh đủ ngày, đúng loại trước-sau

can thiệp……………………………………………………………… 80

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.

3.22 So sánh thực hành tư vấn sau khám bệnh trước-sau can thiệp………. 81

3.23 Một số đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng người bán thuốc……. 82

Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng trong thực hành xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì và Đan Phượng, Hà Nội - 2

3.24 So sánh kiến thức hỏi thông tin về trẻ NKHHCT trước khi bán thuốc

trước-sau can thiệp…………………………………………………… 83

3.25 So sánh kiến thức bán thuốc cho trẻ NKHHCT của người bán thuốc

trước-sau can thiệp…………………………………………………… 85

3.26 So sánh kiến thức tư vấn sau bán thuốc của người bán thuốc trước-

sau can thiệp………………………………………………………….. 86

3.27 So sánh thực hành hỏi thông tin trẻ NKHHCT trước khi bán thuốc

trước-sau can thiệp…………………………………………………… 87

3.28 So sánh thực hành bán thuốc cho trẻ ho, cảm lạnh trước-sau can thiệp………………………………………………………………….. 88

3.29 Đánh giá của bà mẹ về tính khả thi và duy trì của can thiệp……… 90

3.30 Đánh giá của CBYT về tính khả thi và duy trì của can thiệp………... 92

3.31 Đánh giá của người bán thuốc về tính khả thi, duy trì của can thiệp… 94


DANH MỤC CÁC HÌNH


STT Nội dung hình Trang

3.1 So sánh kiến thức về tái khám của bà mẹ trước-sau can thiệp……………………………………………………………… 61

3.2 So sánh cách xử trí trẻ ho, cảm lạnh của bà mẹ trước- sau can thiệp……………………………………………………………… 64

3.3 So sánh thực hành tái khám theo hẹn của bà mẹ trước-sau can thiệp……………………………………………………………… 68

3.4 So sánh số dấu hiệu bệnh rất nặng CBYT biết trước-sau can thiệp… 70

3.5 So sánh kiến thức về kê đơn cho trẻ bị ho, cảm lạnh của CBYT

trước-sau can thiệp …….……………………..………………… 74

3.6 So sánh kiến thức tư vấn chăm sóc trẻ CBYT trước-sau can thiệp……………………………………………………………… 75

3.7 So sánh kiến thức khuyên trẻ NKHHCT đi khám của người bán

thuốc trước-sau can thiệp………………………………………... 84

3.8 So sánh thực hành tư vấn sau bán thuốc trước-sau can thiệp…. 89


ĐẶT VẤN ĐỀ


Trên thế giới, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là bệnh gây mắc và tử vong cao nhất cho trẻ dưới 5 tuổi [140]. Hàng năm có khoảng 150 triệu lượt mắc và 2 triệu trẻ tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, cao hơn tổng số ca tử vong do cả ba bệnh AIDS, sốt rét và sởi cộng lại [132]. Hầu hết (99%) trường hợp tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở các nước đang phát triển [98].

Ở Việt Nam, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là nguyên nhân hàng đầu gây gánh nặng bệnh tật và đứng thứ ba gây tử vong cho trẻ dưới 5 tuổi [49]. Nghiên cứu năm 2003 cho thấy việc chậm trễ trong tiếp cận dịch vụ y tế và không được điều trị đúng là hai nguyên nhân chính gây tử vong cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Trong số tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính có 48% không được chăm sóc y tế trước khi tử vong [16].

Từ năm 1982, Tổ chức Y tế Thế giới đã triển khai Chương trình Phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính Toàn cầu [105]. Đến năm 2009, do viêm phổi vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây mắc và tử vong cho trẻ dưới 5 tuổi nên Tổ chức Y tế Thế giới một lần nữa lại khởi xướng Kế hoạch Toàn cầu Phòng và Kiểm soát Viêm phổi (GAPP).

Chương trình Phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính Quốc gia Việt Nam, trong 10 năm, đã triển khai nhiều biện pháp can thiệp và tập trung vào hệ thống y tế công [7]. Sau nhiều năm triển khai, tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đã giảm, nhưng tần suất mắc bệnh còn cao. Ước tính mỗi năm, trung bình mỗi trẻ mắc khoảng từ 4 đến 6 lượt nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính các thể [14]. Trong khi đó việc dùng thuốc điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính thiếu an toàn xảy ra khá phổ biến. Điều tra tình hình dùng thuốc cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính cho thấy có tới 60,1% sử dụng kháng sinh không theo chỉ định và 87,5% dùng không đủ liều 5 ngày [17].


Hầu hết bệnh tật đều có thể phòng tránh được bằng kiến thức và hành vi đúng. Mặc dù có nhiều cách can thiệp, Thông tin -Giáo dục- Truyền thông cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính luôn là biện pháp hàng đầu được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo thực hiện [105], [126]. Tại nhiều nước, phạm vi, đối tượng Thông tin -Giáo dục- Truyền thông không chỉ gói gọn trong hệ thống y tế mà đã mở rộng ra các đối tượng khác như người chăm sóc trẻ để tiếp cận dịch vụ y tế kịp thời, biết cách chăm sóc trẻ và người bán thuốc để bán thuốc an toàn hợp lý [136].

Tại Việt Nam, các nghiên cứu tìm hiểu, lựa chọn biện pháp Thông tin - Giáo dục- Truyền thông có hiệu quả trong phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính cho trẻ dưới 5 tuổi còn chưa được tiến hành nhiều. Đặc biệt còn thiếu những thử nghiệm can thiệp đồng thời trên nhiều đối tượng (bà mẹ, cán bộ y tế và người bán thuốc) để tạo ra chuyển biến cho toàn bộ chu trình chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu: "Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng trong thực hành xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì và Đan Phượng, Hà Nội" với 3 mục tiêu sau:

1. Đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành của bà mẹ trong xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì và Đan Phượng từ năm 2005 đến 2007.

2. Đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi của cán bộ y tế tại tuyến xã tại huyện Ba Vì và Đan Phượng từ năm 2005 đến 2007.

3. Đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành bán thuốc của người bán thuốc tại tuyến xã cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì và Đan Phượng từ năm 2005 đến 2007.


Chương 1- TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Tình hình mắc và tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính


Trên thế giới

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) chiếm khoảng một nửa số ca mắc bệnh của trẻ dưới 5 tuổi trên thế giới với tần suất mắc trung bình từ 4 đến 9 lần/trẻ/năm [142]. Các nước càng chậm phát triển, có mức thu nhập và trình độ học vấn của người dân càng thấp thì tỷ lệ mắc và tử vong do NKHHCT càng cao [103]. Tần suất NKHHCT của trẻ dưới 1 tuổi ở Mỹ là 4,5 lần/trẻ/năm. Trong khi đó tại Guatemala là 8,3 lần/trẻ/năm hay ở Nigeria là 7,5 lần/trẻ/năm [135].

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy số trẻ đi khám và nhập viện vì NKHHCT cũng chiếm tỷ lệ cao. Báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) cho thấy tỷ lệ trẻ đi khám do NKHHCT chiếm hơn 1/3 tổng số lượt khám cho trẻ dưới 5 tuổi và trên 30% trẻ phải nhập viện nguyên nhân do NKHHCT [90], [102].

Không chỉ chiếm tỷ lệ mắc bệnh cao, NKHHCT còn là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi tại bệnh viện. Cứ 2 đến 3 trẻ tử vong thì có 1 trẻ tử vong do NKHHCT. Theo TCYTTG, viêm phổi là nguyên nhân hàng đầu (chiếm 19%), cao hơn cả tiêu chảy (18%), sốt rét (8%) hoặc nhiễm khuẩn sơ sinh (10%) gây tử vong cho trẻ dưới 5 tuổi [103].

Có tới 90% ca tử vong do NKHHCT ở các nước đang phát triển [90]. Tại Bangladesh, năm 2002, mỗi ngày có gần 400 trẻ tử vong do NKHHCT [67]. Năm 1996, ở Ethiopia, NKHHCT gây ra khoảng 20% số tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi [91] và khoảng 33% tử vong sơ sinh [110].


Theo số liệu của TCYTTG, NKHHCT là nguyên nhân hàng đầu làm mất những năm sống điều chỉnh theo thương tật (DALYs: Disability Adjusted Life Years) ở trẻ dưới 5 tuổi[140]. NKHHCT gây ra khoảng 8,2% trong tổng số gánh nặng tàn tật và tử vong ở cả người lớn và trẻ em[115].

Với tỷ lệ mắc và tử vong cao như vậy NKHHCT sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế gia đình cũng như là gánh nặng cho hệ thống y tế và kinh tế đất nước vì phải tốn những khoản chi phí lớn cho việc chăm sóc, điều trị trẻ [11].

Tại Việt Nam

Cũng tương tự như ở các nước đang phát triển khác, NKHHCT đang là nguyên nhân hàng đầu gây mắc và tử vong cho trẻ em dưới 5 tuổi. Với khoảng 10 triệu trẻ dưới 5 tuổi, ước tính mỗi năm có khoảng 30 đến 80 triệu lượt trẻ NKHHCT các thể [12].

Số liệu thống kê tại các bệnh viện từ năm 1996 đến năm 2000 cho thấy số trẻ bị NKHHCT luôn chiếm khoảng hơn một phần ba tổng số trẻ đến khám và chiếm khoảng từ 30% đến 40% tổng số trẻ phải nhập viện để điều trị [39]. Theo Niên giám Thống kê Y tế năm 2009, nhóm bệnh NKHHCT đứng đầu trong các bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất tại bệnh viện [6]. Theo số liệu của Chương trình Phòng chống NKHHCT Quốc gia, cứ 100 trẻ đến khám tại cơ ở y tế lại có 26 trẻ bị NKHHCT. Hiện nay, với tần suất mắc khoảng 5 lần/trẻ/năm, ước tính chỉ có khoảng 0,7% số lần trẻ mắc NKHHCT được quản lý tại cơ sở y tế [13]. Trong số trẻ trong diện quản lý của Chương trình Phòng chống NKHHCT Quốc gia có tới 3% trẻ đến cơ sở y tế khi đã quá nặng [12].

Trong các nguyên nhân tử vong ở trẻ em, viêm phổi chiếm tỷ lệ cao nhất (31,3%), cao gấp 6 lần so với tiêu chảy (5,1%). Trong số tử vong do viêm phổi có tới 48% trẻ đã không được chăm sóc y tế trước khi tử vong [18]. Số liệu từ bệnh viện các tuyến cho thấy tử vong do NKHHCT chiếm 40- 60%


tử vong chung ở trẻ dưới 5 tuổi, trong đó chủ yếu tử vong do viêm phổi [16]. Nghiên cứu tình hình tử vong cho thấy, tỷ lệ tử vong trước 24 giờ do NKHHCT đặc biệt cao trong nhóm trẻ sơ sinh (92,7%) và nhóm trẻ từ 1 đến 12 tháng tuổi (72%) [47].

1.2. Thực trạng chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của bà mẹ

1.2.1. Vai trò của người mẹ trong chăm sóc trẻ


Một trong những vai trò quan trọng của phụ nữ trong gia đình là chăm sóc và nuôi dạy con cái [42]. Tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia châu Á khác, việc chăm sóc con cái chủ yếu do người mẹ đảm trách [1], [58]. Công việc chăm sóc con cái của người mẹ bao gồm việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe cả lúc trẻ khỏe mạnh lẫn lúc ốm đau [65]. Một nghiên cứu tại nông thôn Việt Nam năm 1996 cho thấy, 90,8% việc nuôi dạy trẻ do người mẹ đảm nhận [41]. Vì vậy việc thay đổi hành vi chăm sóc trẻ của bà mẹ sẽ góp phần quan trọng giảm tỷ lệ mắc và tử vong trẻ em [114].

1.2.2. Thực trạng chăm sóc trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của bà mẹ


Chăm sóc cho trẻ NKHHCT bắt đầu bằng việc phát hiện sớm dấu hiệu bệnh. Đưa trẻ ngay đến cơ sở y tế khi có các dấu hiệu bệnh cần khám, điều trị ngay. Cho trẻ ăn tốt hơn, uống nhiều nước và thường xuyên theo dõi diễn biến bệnh. Dùng thuốc theo chỉ định của CBYT [9], [8].

1.2.2.1. Kiến thức, thực hành nhận biết dấu hiệu bệnh


Trên thế giới

Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, đã có khá nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Mặc dù có vai trò rất quan trọng, mang tính quyết định đến việc chăm sóc và điều trị cho trẻ, các nghiên cứu đều cho thấy kiến


thức, thái độ, niềm tin và hành vi xử trí ban đầu của bà mẹ khi trẻ có dấu hiệu

NKHHCT còn nhiều vấn đề cần được cải thiện [117].


Nghiên cứu năm 1994 ở Mindoro, Philippines, mặc dù các bà mẹ nói rằng họ đã điều trị sớm, kết quả phỏng vấn sâu cho thấy phần lớn đã chờ đợi từ 5 đến 7 ngày kể từ khi có những dấu hiệu bệnh đầu tiên. Phần lớn bà mẹ biết khó thở là dấu hiệu NKHHCT nặng. Nhưng chỉ có một vài người biết về các triệu chứng thở nhanh và rút lõm lồng ngực (RLLN)[112].

Nghiên cứu, năm 2001, tại Bangladesh thấy rằng hầu hết bà mẹ không nhận biết được thở nhanh và RLLN là những chỉ báo quan trọng của bệnh viêm phổi nặng. Đa số bà mẹ không hề coi đây là dấu hiệu bệnh nặng [116].

Nghiên cứu tại Nepal, năm 2004, cũng cho thấy kiến thức nhận biết dấu hiệu cần đưa đi khám khi trẻ NKHHCT của bà mẹ còn rất kém. Không có bà mẹ nào biết đầy đủ các dấu hiệu, 10% bà mẹ không biết bất cứ dấu hiệu nào, khoảng một nửa số bà mẹ chỉ biết dấu hiệu sốt (51%). Chỉ có 45,2% biết trẻ ốm nặng hơn và 42,5% cho rằng trẻ không uống được là những dấu hiệu cần đưa đi khám [81].

Tại Việt Nam

Mặc dù kiến thức nhận biết dấu hiệu NKHHCT của bà mẹ những năm gần đây tỏ ra có tốt hơn. Điều tra Y tế Quốc gia năm 2002 cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức phòng và xử trí NKHHCT (43,5%) đồng đều ở nông thôn và thành thị, đồng thời cao hơn so với kiến thức về bệnh tiêu chảy (24,0%) và suy dinh dưỡng trẻ em (27,4%) [2]. Năm 2008, hầu hết các bà mẹ được hỏi tại Từ Liêm-Hà Nội (chiếm 83,3%) và Tiền Hải-Thái Bình (chiếm 96,7%) đã biết ít nhất 2 dấu hiệu bệnh cần phải đưa trẻ đi khám [44].

Kỹ năng nhận biết dấu hiệu bệnh, nhất là những dấu hiệu cần khám

ngay, của bà mẹ hoặc người chăm sóc trẻ còn nhiều bất cập. Năm 2008,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/09/2023