Một Số Loại Ctnh Chính Ở Việt Nam Cần Được Giám Sát Đặc Biệt

2020 sẽ có khoảng 46 triệu cư dân sinh sống ở các vùng đô thị; Tiêu dùng sẽ tăng lên và sản xuất cũng sẽ tăng mạnh với việc phát triển thêm nhiều ngành công nghiệp có tiềm năng phát sinh nhiều CTNH và các cơ sở y tế sẽ tiếp tục được hiện đại hoá. Những biến động này sẽ làm lượng phát sinh chất thải sinh hoạt tăng thêm 60%; lượng phát sinh CTCN sẽ tăng 50% và lượng phát sinh CTNH sẽ tăng hơn 3 lần, mà chủ yếu là từ các nguồn công nghiệp. Nếu tính đến chi phí cao cho các hoạt động thu gom và tiêu huỷ chất thải một cách an toàn thì việc triển khai các sáng kiến nhằm giảm thiểu phát sinh chất thải như: Các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng, sản xuất sạch hơn và áp dụng các biện pháp khuyến khích về kinh tế dựa trên nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, chúng ta sẽ tiết kiệm đáng kể nguồn kinh phí. Ví dụ như: Ước tính mỗi năm sẽ tiết kiệm được 200 tỷ đồng chi cho hoạt động xử lý chất thải sinh hoạt và 130 tỷ đồng chi cho xử lý chất thải y tế nguy hại nếu thực hiện giảm thiểu được 10% lượng chất thải phát sinh. [8b]

Với quy mô đô thị hóa, gia tăng dân số và công nghiệp hóa, lượng CTNH nói riêng sẽ tăng nhanh chóng. Việc xử lý các loại chất thải này sẽ là một áp lực rất lớn đối với công tác BVMT ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Trong đó, một số CTNH chủ yếu ở Việt Nam cần phải có sự giám sát đặc biệt (Bảng 1.1). Lượng CTNH phát sinh mỗi năm tại 3 khu vực KTTĐ của cả nước khoảng 113.188 tấn (Bảng 1.2). Trong vùng KTTĐ phía Bắc, tỉnh Quảng Ninh được kể đến là 1 trong 3 địa phương có lượng phát sinh CTNH lớn nhất toàn vùng. Tổng lượng CTNH phát sinh theo một số ngành được thể hiện tại Bảng 1.1.

Bảng 1.1. Một số loại CTNH chính ở Việt Nam cần được giám sát đặc biệt


Loại CTNH

Các đặc tính

Chất thải PCB

Độc hại

Bùn chứa kim loại nặng

Độc hại

Các dung môi chứa Halogen

Độc hại

Chất thải thuốc BVTV

Độc hại

Dầu và dầu mỡ

Độc hại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.


Loại CTNH

Các đặc tính

Các chất tẩy rửa

Độc hại

Chất thải chứa dầu

Độc hại

Dầu thải

Độc hại

Chất thải y tế

Độc hại

Nguồn: [30]

Bảng 1.2. CTNH phát sinh ở các vùng kinh tế trọng điểm


Đơn vị

Khối lượng (tấn/năm)

Khu vực KTTĐ phía Bắc

28.739

Hà Nội

24.000

Hải Phòng

4.620

Quảng Ninh

119

Khu vực KTTĐ miền Trung

4.117

Đà Nẵng

2.257

Quảng Nam

1.768

Quảng Ngãi

92

Khu vực KTTĐ phía Nam

80.332

TP. Hồ Chí Minh

44.413

Đồng Nai

33.976

Bà Rịa – Vũng Tàu

1.943

Nguồn: [30a]

Bảng 1.3. Lượng CTNH phát sinh theo ngành


Ngành

Khối lượng (kg)

Công nghiệp nhẹ

60.000

Hóa chất

45.000

Cơ khí luyện kim

26.000

Y tế

10.000

Từ chất thải sinh hoạt đô thị

5.000

Chế biến thực phẩm

4.000

Điện, điện tử

2.000

Tổng cộng

152.000

Nguồn: [30b]



Hình 1 1 Thực trạng CTNH phát sinh tại các cơ sở sản xuất dịch vụ Hình 1 2 1

Hình 1.1. Thực trạng CTNH phát sinh tại các cơ sở sản xuất, dịch vụ


Hình 1 2 Phương tiện vận chuyển trái phép CTNH không đảm bảo điều kiện theo 2

Hình 1.2. Phương tiện vận chuyển trái phép CTNH không đảm bảo điều kiện theo quy định (Nguồn: báo Công an Nghệ An ngày 28/09/2012)

1.2.2. Tình hình quản lý CTNH trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.2.1. Tình hình quản lý CTNH trên thế giới

Hiện nay trên thế giới đã có nhiều cơ quan quốc tế như IRPTC (tổ chức đăng ký toàn cầu về hóa chất độc tiềm tàng), IPCS (chương trình toàn cầu về an toàn hóa chất), WHO (tổ chức Y tế thế giới)…xây dựng và quản lý các dữ liệu thông tin về an toàn hóa chất.

Tùy từng điều kiện kinh tế - xã hội và mức độ phát triển khoa học kỹ thuật cùng với nhận thức về quản lý, xử lý chất thải riêng của mình. Dưới đây là những mô tả tổng quan về tình hình quản lý chất thải nguy hại tại một số nước trong khu vực và thế giới:

Trung Quốc: Phần lớn chất thải nguy hại của các khu vực kinh tế, một số xí nghiệp có khả năng xử lý tại chỗ. Trung Quốc cũng đề ra Luật kiểm soát và phòng ngừa nhiễm bẩn do chất thải rắn (1995), trong đó có quy định các ngành công nghiệp phải đăng ký việc phát sinh chất thải, nước thải… đồng thời phải đăng ký việc chứa đựng, xử lý và tiêu hủy chất thải, liệt kê các chất thải từ các ngành công

nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp hóa chất.

Hồng Kông: cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung được xây dựng từ năm 1987 đến năm 1993. Với hệ thống thu gom, vận chuyển và thiết bị xử lý hiện đại, công nghệ chủ yếu là xử lý nhiệt và xử lý hóa/lý đã xử lý hầu hết lượng chất thải tại Hồng Kông. Tại đây người ta cũng tiến hành nghiên cứu và đề xuất quy chế chung về sự tiêu hủy chất thải, đặc biệt là chất thải hóa học. Nhờ hệ thống nghiền nhỏ để chôn lấp, kiểm soát nơi thu gom, vận chuyển xử lý và tiêu hủy chất thải, nhất là chất thải nguy hại đã góp phần nâng cao chất lượng quản lý chất thải nói chung và quản lý nguy hại nói riêng tại Hồng Kông.

Inđônêxia: xử lý chất thải nguy hại bằng các cơ sở hóa phối hợp hữu cơ tập trung và đốt chất thải hữu cơ trong lò xi măng; chất thải vô cơ lỏng nói chung được thải vào nước. Một số ít chất thải nguy hại được xử lý tại chỗ tại các cơ sở sản xuất.

Malaysia: tại đây xây dựng cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung từ năm 1995 – 1996, đây là cơ sở xử lý với công nghệ hiện đại vận hành trên cơ sở thu hồi vốn hoàn toàn. Chất thải nguy hại được liệt kê và chứa giữ riêng trong những ngăn kín của hố chôn rác tại bãi chôn lấp chờ xử sau.

Philippin: chất thải nguy hại được đổ vào nước hay đổ vào các bãi rác công cộng. Hiện tại Philippin chưa có công trình xử lý chất thải nguy hại tập trung, một số ít chất thải được xử lý tại chỗ. Hiện đang có một đề án nghiên cứu về xử lý chôn lấp chất thải nguy hại do EU tài trợ.

Singapore: để giải quyết chất thải nguy hại đã có giải pháp công nghệ trình độ thấp để xử lý hóa/lý, thu hồi dung môi hữu cơ và lò đốt trong nhiều năm, chủ yếu dùng thiết bị cũ, hệ thống tiên tiến hiện đại đã được đề nghị nhưng chưa được thực hiện. Hiện tại chất thải được phân loại, một phần được tái chế phần còn lại được đưa vào 4 nhà máy thiêu hủy. Hiện tại đã xây dựng nhà máy thứ 5 với công suất 2500 tấn/ngày để xử lý chất thải. Hệ thống xử lý được MARPOL phê duyệt bao gồm cả lò đốt sẽ góp phần giải quyết chất thải nguy hại tại Singapore. Nhiệt lượng trong quá trình thiêu hủy được thu hồi để chạy máy phát điện. Công nghệ thiêu hủy chất thải đang được thay thế bằng các công nghệ hiện đại hơn, đảm bảo các tiêu

chuẩn về môi trường. Dầu cặn, sơn thừa được tái chế sử dụng thì các nhà máy xí nghiệp phải chịu chi phí xử lý chúng. Việc thu gom chất thải hầu hết do các công ty tư nhân đảm nhận, nhà nước hỗ trợ tiền xây dựng nhà máy xử lý thiêu hủy chất thải. Các công ty thu gom chất thải đều chuyển sang hình thức cổ phần hóa, Bộ môi trường giám sát chặt chẽ việc quản lý chất thải trên phạm vi toàn quốc. Hàng tháng, người dân có nghĩa vụ đóng góp phí thu chất thải tùy theo diện tích sử dụng đất của từng hộ.

Srilanca: hiện tại không có quy trình xử lý chất thải chuyên dụng. Thông thường chất thải nguy hại được đổ vào bãi rác không chống thấm. Hiện nay đang xây dựng hố chôn lấp hợp vệ sinh cho các chất thải đô thị. Một chiến lược quản lý chất thải nguy hại đang được dự thảo bởi ERM (do WB tài trợ). Nhìn chung chất thải nguy hại tại Srilanca chưa được quan tâm đúng mức.

Thái Lan: chất thải nguy hại của Thái Lan đã được đưa vào hệ thống xử lý trung tâm với công nghệ xử lý thấp, hệ thống xử lý này được đưa vào vận hành từ năm 1998 và phương thức xử lý chủ yếu là xử lý hóa/lý ổn định và chôn lấp an toàn cùng với hệ thống phối trộn hữu cơ (cho đốt trong lò xi măng). Ngoài phương thức xử lý hóa/lý kết hợp với đốt cũng được áp dụng tại Thái Lan.

Pháp: các chất thải nguy hại nói riêng và chất thải nói chung chỉ được tiêu hủy khoảng 40%, số còn lại chưa được xử lý hợp vệ sinh. Hiện tại, hàng năm có tới 20 triệu tấn chất thải không được xử lý đã chất đống ở những nơi hoang vu không người khai thác. Ngoài ra do phí lưu giữ chất thải ở Pháp khá rẻ nên các nước láng giềng đã mang chất thải của nước thải của mình sang đổ ở các bãi rác thải tại Pháp. Tại đây có khoảng hơn 20000 bãi chất thải hoang và tình trạng đổ thải bừa bãi như vậy đang được chính phủ Pháp tìm mọi cách để chấm dứt.

Hà Lan: Chất thải nguy hại được xử lý bằng nhiều cách khác nhau, trong đó phần lớn được thiêu hủy, một phần được tái chế. Trước đây, Hà Lan tiến hành thiêu hủy chất thải ở ngoài biển, nhưng từ năm 1990 trở lại đây, Hà Lan đã tập trung xử lý chất thải nguy hại tại 5 khu vực trên phạm vi toàn quốc, thường do các xí nghiệp

tư nhân với sự tham gia của nhiều công ty tiến hành dưới sự giám sát của các cơ quan chuyên môn. Hằng năm, Hà Lan có tới 20 triệu tấn chất thải, 60% trong số này được đổ ở các bãi chứa, phần còn lại được đưa vào các lò thiêu hủy hoặc tái chế. Để bảo vệ môi trường, Chính phủ Hà Lan đã đề ra mục tiêu giảm khối lượng chất thải hằng năm để giảm chi phí xử lý. Công nghệ xử lý chất thải nguy hại chủ yếu được áp dụng là thiêu hủy, nhiệt năng do các lò thiêu hủy sinh ra sẽ được hòa nhập vào mạng lưới năng lượng chung của đất nước. Ngoài ra, Hà Lan còn đạt được bước chuyển lớn trong việc mở rộng chương trình giáo dục trong trường học, trong các xí nghiệp công nghiệp và những người nội trợ về những sự cần thiết phải đảm bảo môi trường sống được trong sạch ở nhiều nơi, các chất thải được phân loại ngay từ nguồn phát thải, nhất là đối với chất thải nguy hại. Việc thiêu hủy chất thải nguy hại được tiến hành ở những lò đốt hiện đại với những kỹ thuật mới nhất, hoặc việc tổ chức sản xuất được ứng dụng những quy trình đặc biệt nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu mới, thuận lợi cho việc chế biến.

1.2.2.2. Tình hình quản lý CTNH tại Việt Nam

Hiện tại việc quản lý CTNH trên toàn quốc được thực hiện theo Thông tư 12/2011/TT-BTNMT quy định về CTNH. Cũng như sự tham gia tích cực của lực lượng Cảnh sát PCTP môi trường, tình hình quản lý CTNH nói chung tại các cơ sở công nghiệp lớn đã bắt đầu ý thức về trách nhiệm đối với CTNH do doanh nghiệp mình phát sinh. Bên cạnh đó có nhiều cơ sở chưa ý thức rò hoặc tìm cách trốn tránh trách nhiệm của chủ nguồn thải. Song song với chủ nguồn thải, năng lực xử lý CTNH của các cơ sở đang trong tình trạng quá tải, thậm chí một số tỉnh chưa có cơ sở xử lý CTNH nào.

Các hệ thống xử lý CTCN nguy hại còn chưa đầy đủ. Việc thiếu các cơ sở xử lý tập trung và các cơ chế khuyến khích để thúc đẩy thực hiện các biện pháp tiêu huỷ an toàn sẽ dẫn đến tình trạng là các cơ sở công nghiệp hiện vẫn tiếp tục thực hiện các phương pháp xử lý và tiêu huỷ không an toàn như tiêu huỷ chung với các loại CT đô thị khác, lưu giữ ngay tại cơ sở, bán cho các cơ sở tái chế hoặc thậm chí

là đổ bỏ một cách tuỳ tiện. Ở một số cơ sở công nghiệp quy mô lớn và các KCN, hiện đã có một số nơi bắt đầu áp dụng các phương thức cùng dùng chung hệ thống xử lý, tiêu huỷ CT như các loại lò đốt đơn giản, các loại lò hơi công nghiệp hoặc là các cơ sở xử lý CT chuyên dụng ở gần cơ sở mình.

Năng lực xử lý chất thải y tế nguy hại đang được tăng cường nhưng bị hạn chế do vận hành không đúng kỹ thuật. Hiện tại, tổng mức đầu tư cho việc trang bị các lò đốt với công suất tổng cộng đã đủ để đảm bảo thực hiện thiêu huỷ khoảng 50% tổng lượng chất thải y tế nguy hại. Tuy nhiên, do thiếu kinh phí để vận hành và bảo dưỡng các lò đốt này nên dẫn tới tình trạng không vận hành các lò đốt theo đúng quy trình kỹ thuật, do vậy mà làm tăng khả năng phát thải các loại khí dioxin và furan độc hại hoặc thực hiện tiêu huỷ chất thải y tế nguy hại giống như chất thải đô thị. Do đó, cần phải xây dựng và áp dụng cách tiếp cận có tính gắn kết và nhất quán đối với hoạt động quản lý chất thải rắn (CTR) y tế.

Các hoá chất nông nghiệp tồn lưu đang được xử lý. Gần một nửa lượng chất thải là các hoá chất dùng trong nông nghiệp tồn lưu ở các kho chứa đã được xử lý bằng cách thiêu đốt hoặc là bằng các kỹ thuật hoá học. Tuy nhiên, chi phí xử lý còn cao và các biện pháp xử lý này cũng chưa thực sự thoả đáng do vẫn còn tạo ra các loại bùn, tro, khí thải có nhiều khả năng gây ra các rủi ro về môi trường như các kim loại nặng, các chất dioxin và furan.

Với tỷ lệ thu gom như hiện nay, mới chỉ đạt khoảng 60% - 80% tổng lượng CTNH. Tại các thành phố việc thu gom và xử lý chất thải đô thị thường do Công ty môi trường đô thị đảm nhận. Hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải hàng ngày ở các đô thị được thực hiện như sau: hầu hết các rác thải không được phân loại tại nguồn mà được thu gom lẫn lộn (trong đó lẫn CTNH) sau đó được vận chuyển đến bãi chôn lấp. Tỷ lệ thu gom vào khoảng 60% - 80% tổng lượng rác thải phát sinh ở các thành phố lớn, còn các đô thị nhỏ tỷ lệ này khoảng 40% - 60%. Do đó, toàn quốc khoảng 60%. Việc chôn lấp CT sinh hoạt đô thị có lẫn CTNH không đảm bảo vẫn xảy ra.

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 14/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí