Vai Trò Của Các Bên Trong Quản Lý Môi Trường Khu Công Nghiệp

động kinh doanh sản xuất, tại Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, một hành vi vi phạm có thể bị xử phạt tối đa là 2.000.000.000 (hai tỷ đồng), Nghị định này đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng 2 năm 2016.

1.1.2.3. Tuyên truyền giáo dục

- Việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường đóng vai trong hết sức quan trọng trong công tác quản lý môi trường. Trong thời gian vừa qua, nhà nước đã thường xuyên tổ chức các hội thảo chuyên đề về bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT, qua đó thu thập thông tin, ý kiến của các cơ quan Nhà nước Trung ương, địa phương và doanh nghiệp để nắm bắt tình hình thực tế, nghiên cứu điều chỉnh các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT. Có các chương trình phổ biến và hướng dẫn cho các Doanh nghiệp hiểu rõ những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, các mức xử phạt vi phạm hành chính đối với từng trường hợp cụ thể, giúp Doanh nghiệp hạn chế tối đa các thiếu sót và những sai phạm không đáng có, đồng thời góp phần chung vào công cuộc Bảo vệ môi trường và Phát triển bền vững. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án xanh, sạch hơn. Đi đôi với việc xử phạm vi phạm cần có cơ chế, chính sách khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có thành tích tốt trong việc bảo vệ môi trường, có như vậy, môi trường KCN mới được đảm bảo và phát triển bền vững.

1.1.2.4. Công cụ thông tin truyền thông

Ngày nay công cụ thông tin và truyền thông cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường, các vụ việc vi phạm nghiêm trọng về bảo vệ môi trường, các thông tin gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất hàng ngày được công khai và thông báo rộng dãi trên các phương tiện thông tin và đại chúng như vụ việc xả nước thải không qua xử lý của Công ty TNHH Vedan; Công ty TNHH gang thép Hung nghiệp Formosa Hà Tĩnh… Viêc công khai thông tin về tình hình ô nhiễm và vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của đã được Chính phủ quy định tại điều số 57 của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18

tháng 11 năm 2016 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

1.1.3. Vai trò của các bên trong quản lý môi trường Khu công nghiệp

1.1.3.1. Vai trò của cơ quan quản lý môi trường

Các cơ quan quản lý môi trường có vai trò hết sức quan trọng trong việc quản lý môi trường khu công nghiệp, hiện nay các cơ quan được giao chức năng thanh tra môi trường chuyên ngành chỉ gồm: Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh thành phố (Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường), Bộ Tài nguyên Môi trường (Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường), chưa có quy định giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho Ban quản lý các Khu công nghiệp và các Công ty hạ tầng do vậy lực lượng quản lý môi trường chuyên ngành còn hết sức mỏng. Ngoài tra, lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường Bộ Công an (C49) và Công an địa phương (Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường - PC49) cũng đã mang lại những hiệu quả nhất định trong công tác phòng chống và xử lý các đối tượng gây ô nhiễm môi trường. Việc thành lập các đội thanh tra, kiểm tra Liên ngành và triển khai các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất và xử lý xử phạt hành chính, đình chỉ hoạt động đối với các cơ sở cố tình vi phạm hoặc có vi phạm nghiêm trọng đã mang lại hiệu quả cao trong công tác bảo vệ môi trường.

1.1.3.2. Vai trò của Cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

Hiện nay, trong các mô hình quản lý môi trường được áp dụng rộng rãi tại các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển trên thế giới đều coi trọng vị trí của “Cộng đồng”, các mô hình quản lý dùng khái niệm “cộng đồng” như Quản lý trên cơ sở cộng đồng, Sự tham gia của cộng đồng, Phát triển cộng đồng. Luật Bảo vệ môi trường năm 2015 và Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ đã yêu cầu Trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường, chủ dự án phải tiến hành tham vấn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thực hiện dự án, các tổ chức và cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án; nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến khách quan, kiến nghị hợp lý của các đối tượng liên quan được tham vấn để

hạn chế thấp nhất tác động bất lợi của dự án đến môi trường tự nhiên đa dạng sinh học và sức khỏe cộng đồng (quy định tại Khoản 4, Điều 12 của Nghị định 18/2015/NĐ-CP); Việc tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án được tiến hành dưới hình thức họp cộng đồng dân cư do chủ dự án và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án đồng chủ trì với sự tham gia của những người đại diện cho Ủy ban mặt trận Tổ quốc cấp xã, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ dân phố, thôn, bản được Ủy ban nhân dân cấp xã triệu tập. Ý kiến của các đại biểu tham dự cuộc họp phải được thể hiện đầy đủ, trung thực trong biên bản họp cộng đồng (quy định tại Khoản 4, Điều 12 của Nghị định số 18/2015/NĐ-CP).

Đánh giá hiện trạng môi trường khu công nghiệp Thọ Quang, thành phố Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường tại khu công nghiệp - 3

1.1.3.3. Vai trò của Doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường

Vai trò của Doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường khu công nghiệp nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng và tiên quyết. Chỉ có chủ đầu tư quyết định được việc cấp kinh phí thực hiện các nội dung đã cam kết trong các Báo cáo đánh giá tác động môi trường/Bản cam kết bảo vệ môi trường hay Đề án bảo vệ môi trường… đồng thời tuyên truyền, hướng dẫn cho các cán bộ công nhân viên thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo vệ môi trường. Để có được môi trường Khu công nghiệp trong sạch các cơ quan quản lý nhà nước cần có các chính sách phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp và khuyến khích các cơ sở bên trong khu công nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường.


1.2. Thực tiễn và kinh nghiệm rút ra trong quản lý môi trường Khu công nghiệp tại Việt Nam

1.2.1. Thực tiễn về quản lý môi trường khu công nghiệp ở Việt Nam

Tính đến tháng 10 năm 2009, cả nước đã có 223 KCN được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trong đó đã có 171 KCN đi vào hoạt động với tổng diện tích đất là 57.624 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy trung bình khoảng 46% [1], quá trình phát triển nhanh của các khu đô thị và KCN đã gây những xáo trộn về mặt xã hội, làm cho môi trường ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đặc biệt, thời gian gần

đây, tình trạng ÔNMT đã và đang trở thành vấn đề nóng hổi, khi các vụ vi phạm về môi trường rất nghiêm trọng của các nhà máy trong các KCN lần lượt bị phát giác ở nhiều địa phương. Đây là một thực trạng đáng báo động và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, trong khi công tác quản lý môi trường tại các cấp chính quyền còn nhiều hạn chế [2].

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật về BVMT còn chưa chặt chẽ, cụ thể và thiếu đồng bộ

Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về BVMT ở nước ta đã được quan tâm (khoảng 300 văn bản). Việc ban hành Luật BVMT năm 2014 (sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005) và các văn bản dưới luật để cụ thể Luật này đã góp phần tạo nên môi trường pháp lý điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững. Tuy vậy, hệ thống văn bản pháp luật về BVMT hiện nay còn chưa đầy đủ, hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ: thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện BVMT thiếu chính sách cụ thể khuyến khích ngành công nghiệp môi trường, xã hội hoá công tác BVMT… Rất nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành, nhưng nội dung từng lĩnh vực vẫn chưa được tập hợp một cách có hệ thống [15].

Một vấn đề khác là tính ổn định của văn bản pháp luật về BVMT không cao. Có những văn bản mới ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung, như Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT, đến ngày 28/2/2008 đã phải sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 21/2008/NĐ-CP… hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường 2015 đã có hiệu lực nhưng các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa ban hành kịp thời các Nghị định và Thông tư hướng đẫn. Ngoài ra, các điều kiện đảm bảo công tác BVMT, bổ sung nguồn nhân lực và các trang thiết bị cần thiết, nhất là cho các tổ chức cấp cơ sở, nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ quản lý cũng không có trong quy định. Bên cạnh đó, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành ngày 2/4/2008 tuy có bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, nhưng vẫn chưa bổ sung thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn (tạm giữ người, tang vật, phương tiện hay khám xét,…), Luật xử lý vi

phạm hành chính 2010 ban hành chưa được Chính phủ hướng dẫn cụ thể công tác xử lý, cưỡng chế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường [15].

Thứ hai, các cấp chính quyền chưa quan tâm đúng mức đối với việc kiểm tra, đánh giá công tác BVMT tại các cơ sở sản xuất kinh doanh.

Ô nhiễm môi trường hiện là vấn đề “nóng” trên phạm vi cả nước, không phải là vấn đề riêng của địa phương nào. Tuy nhiên, sự phối hợp mang tính liên tỉnh, liên vùng nhằm đối phó với tình trạng này vẫn còn nhiều bất cập.

Việc đề ra những yêu cầu về môi trường theo một “chuẩn” chung là rất khó, do đó vẫn còn nhiều địa phương đưa ra những tiêu chuẩn thấp về môi trường (một phần còn do tình trạng cạnh tranh thu hút đầu tư). Như vậy, nếu dự án gây ô nhiễm bị từ chối cấp phép ở tỉnh này nhưng lại được cấp phép ở một tỉnh khác thì tình hình ô nhiễm sẽ rất khó giải quyết. Đây có thể là kết quả của việc thiếu một quy chế rõ ràng và nhất quán về việc hạn chế gây ô nhiễm, trong đó phải có sự phối hợp của các địa phương.

Việc xác định rõ cơ chế phối hợp giữa lực lượng cảnh sát môi trường và thanh tra tài nguyên - môi trường cũng đang là vấn đề đặt ra. Lực lượng cảnh sát môi trường được thành lập và hoạt động từ tháng 11/2006, tuy nhiên hiện nay việc xử lý vi phạm vẫn chỉ đang dừng lại ở mức xử phạt vi phạm hành chính, và sử dụng các biện pháp đình chỉ khắc phục vi phạm, các chế tài xử lý hình sự các vụ việc liên quan đến bảo vệ môi trường vẫn chưa được Chính phủ thông qua. Ngoài ra, mối liên hệ giữa lực lượng chuyên trách về quản lý môi trường và các thành phần có chức năng giám sát môi trường khác còn chưa chặt chẽ. Việc thiếu những hoạt động phối hợp cụ thể như tuyên truyền, đào tạo, giáo dục về môi trường cũng khiến cho ý thức, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong việc tự giác tham gia BVMT chưa cao [15].

Tình trạng bị động và đùn đẩy trách nhiệm cũng là một thực tế khó có thể chấp nhận. Việc tố giác, khiếu nại hành vi gây ô nhiễm môi trường của người dân địa phương tại một số nơi không được coi trọng. Các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương, cấp cơ sở như công an, ban môi trường, trật tự đô thị xã (phường, thị trấn) có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, làm ngơ trước những thiệt hại về sức khoẻ, về

tài sản của người dân đang phải sinh sống trong môi trường ô nhiễm. Việc phải qua rất nhiều tầng, nấc hành chính trước khi vấn đề về môi trường được nhận thức và giải quyết đang gây ra nhiều thiệt hại không đáng có, làm mất lòng tin của người dân, tạo ra ý thức coi thường pháp luật của các chủ cơ sở sản xuất (CSSX).

Trong thời gian qua, những vụ án về môi trường vẫn đang là vấn đề nổi cộm và thu hút sự chú ý của nhân dân. Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về BVMT của các cấp chính quyền địa phương cũng bộc lộ không ít yếu kém. Việc thanh tra, kiểm tra tại nhiều cơ sở sản xuất nhiều năm trước vẫn chỉ là những hoạt động chiếu lệ, khi mà các doanh nghiệp gây ô nhiễm sử dụng những công nghệ lạc hậu và thiếu các thiết bị xử lý ÔNMT vẫn tiếp tục hoạt động cho đến thời gian gần đây mới bị phát giác. Các hành vi vi phạm BVMT thường được xử lý bằng xử phạt hành chính và mức xử phạt hiện nay chưa đủ độ răn đe cần thiết, do đó, các doanh nghiệp chưa thực sự ý thức được những hậu quả của hành vi do họ gây ra, và việc tái vi phạm, thậm chí với mức độ trầm trọng hơn vẫn thường xuyên diễn ra.

Thứ ba, công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường (ĐTM) chưa được coi trọng.

Một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môi trường tại nước ta bắt nguồn từ những yếu kém của khâu đầu tiên trong quá trình phê duyệt và cấp phép dự án đầu tư, trong đó, hoạt động đánh giá và thẩm định và báo cáo ĐTM còn nhiều hạn chế dẫn đến chất lượng của báo cáo ĐTM còn thấp, chất lượng thẩm định của hội đồng thẩm định dự án chưa cao.

Theo Luật BVMT và các văn bản pháp luật có liên quan, các chủ đầu tư phải có Báo cáo ĐTM. Đây là công cụ QLMT được áp dụng cho từng dự án cụ thể nhằm đánh giá mức độ và phạm vi tác động môi trường của dự án, đồng thời đưa ra các giải pháp để giảm thiểu, hạn chế tác động tiêu cực vào môi trường. Báo cáo ĐTM được lập và thẩm định trước để đánh giá tính khả thi về mặt môi trường của dự án với mục đích tham mưu cho cấp lãnh đạo đồng ý cho triển khai đầu tư dự án hay không. Song, thực tế cho thấy các báo cáo ĐTM vẫn còn được lập một cách máy móc, rập khuôn, không thể hiện hết các tác động, đặc biệt là các tác động tiềm tàng

của dự án, gây khó khăn và tiêu tốn nhiều thời gian cho công tác thẩm định. Hoạt động thẩm định và ĐTM đang gặp phải nhiều vướng mắc, chất lượng thẩm định và phê duyệt chưa cao. Điều này bắt nguồn từ cảc nguyên nhân chủ quan và khách quan như:

- Do các dự án thuộc nhiều loại hình khác nhau, từ công nghiệp nặng đến các ngành công nghiệp nhẹ, trong khi các Sở Tài nguyên và Môi trường chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc ĐTM của các dự án này.

- Việc thiếu chuyên gia am hiểu từng lĩnh vực tham gia vào hội đồng thẩm định để phản biện những vấn đề liên qua đến môi trường của từng hoạt động riêng biệt cũng là một nhân tố khiến cho kết quả và chất lượng thẩm định, ĐTM không cao.

- Trình độ của đội ngũ chuyên gia tham gia vào hội đồng thẩm định có vai trò quyết định đối với chất lượng của khâu thẩm định và đánh giá, do các chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực hoạt động của mình và am hiểu về lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, thành phần của hội đồng thẩm định được quy định như hiện nay chưa đảm bảo tính khách quan, trung thực trong đánh giá. Luật đã quy định, 50% số thành viên của hội đồng thẩm định là các nhà môi trường, nhưng chưa nêu rõ các yêu cầu về trình độ, bằng cấp. Cũng do quy định chưa rõ ràng nên đã xảy ra trường hợp thành viên tham gia hội đồng thẩm định có kiến thức về ĐTM nhưng không hiểu biết nhiều về tính chất dự án cần thẩm định, hoặc am hiểu về dự án nhưng lại không có kiến thức về ĐTM, hoặc cả hai. Việc thiếu đại diện của chính những người dân sinh sống xung quanh khu vực dự án được thực hiện cũng khiến cho việc đánh giá thiếu khách quan, trong khi họ chính là đối tượng chịu tác động mạnh nhất khi dự án đi vào thực hiện và có vấn đề về môi trường [15].

Thứ tư, việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải tại các KCN hiện đang được các tổ chức doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước rất quan tâm. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, thực hiện việc thu phí nhiều địa phương, doanh nghiệp vẫn còn lúng túng và bản thân nhà quản lý cũng gặp không ít khó khăn trong việc xác định khối lượng chất thải. Hiện nay, một số địa phương tự đi đo, có nơi thì lấy số liệu của Báo cáo đánh giá tác động môi trường, nơi thì lấy kết quả của thanh tra, quan trắc định kỳ. Nhưng số liệu giữa các đơn vị rất khác nhau,

thời gian đầu các địa phương còn lúng túng trong việc thu phí nên đã tạm dừng việc lấy mẫu phân tích mà giao cho các doanh nghiệp tự kê khai sau đó gửi tờ khai đến Sở TN&MT thẩm định.

1.2.2. Kinh nghiệm rút ra về quản lý môi trường Khu công nghiệp

Tại Việt Nam đã có rất nhiều mô hình quản lý môi trường Khu công nghiệp điểm hình như: Khu công nghiệp VSHIP (tại Bình Dương); Khu công nghiệp Nomura (tại Hải Phòng); Khu công nghiệp Long Hậu Hòa Bình (tại Long An)… Để việc quản lý môi trường tại KCN theo bài bản đòi hỏi đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và công tác bảo vệ môi trường được triển khai bài bản ngay từ khi triển khai xây dựng dự án, một số kinh nghiệm về quản lý môi trường tại các Khu công nghiệp, cụ thể:

1.2.2.1. Về xây dựng và quy hoạch Khu công nghiệp

a) Việc quy hoạch các khu chức năng trong khu công nghiệp phải bảo đảm giảm thiểu ảnh hưởng của các loại hình sản xuất gây ô nhiễm với các loại hình sản xuất khác; thuận lợi cho công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Các dự án trong khu công nghiệp có khoảng cách an toàn môi trường theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các công trình hạ tầng kỹ thuật để giảm thiểu khả năng ảnh hưởng đến các cơ sở khác trong khu công nghiệp và các đối tượng kinh tế - xã hội xung quanh khu công nghiệp.

b) Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp gồm: Hệ thống thu gom nước thải, nhà máy xử lý nước thải tập trung, hệ thống thoát nước thải), khu vực lưu giữ chất thải rắn (nếu có), hệ thống quan trắc nước thải tự động và các công trình hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khác…phải được thiết kế đồng bộ và tuân theo quy định, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng và quy định, quy chuẩn kỹ thuật môi trường có liên quan.

c) Riêng về hệ thống thoát nước phải được tách riêng hệ thống thu gom, thoát nước thải với hệ thống thoát nước mưa; đồng thời hệ thống thu gom, thoát nước thải phải có vị trí, cốt hố ga phù hợp để đấu nối với điểm xả nước thải của các cơ sở và bảo đảm khả năng thoát nước thải của khu công nghiệp; vị trí đấu nối nước

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí