Theo đó, đến hết năm 2015, “có 637 xã, phường, thị trấn đã hoàn thành việc rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ đến năm 2015 và cho nhiệm kỳ 2015
2020; đồng thời xây dựng quy hoạch cán bộ
cho nhiệm kỳ
2020 2025”
[168, tr. 4]. Nhìn chung, công tác quy hoạch được các cấp ủy ở xã, phường, thị trấn tiến hành nghiêm túc, khách quan, dân chủ, bảo đảm tiêu chuẩn, số lượng, tỷ lệ nguồn là trẻ, nữ, cán bộ dân tộc thiểu số… được đưa vào quy hoạch theo quy định. Bên cạnh đó, quy hoạch cán bộ chưa đáp ứng với quy hoạch phát triển KT XH ở xã, phường, thị trấn, còn bị khép kín trong nội bộ địa phương, nên chất lượng chưa cao; nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số chưa nhiều hoặc có nơi đưa vào cho đủ tỷ lệ, tính khả thi thấp; việc thẩm định, phê duyệt, công khai, quản lý và thực hiện quy hoạch cán bộ còn hạn chế.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở xã, phường, thị trấn, đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng gắn với tiêu chuẩn chức danh cán bộ; tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 29KH/TU của Tỉnh ủy Thanh Hóa, ngày 29/9/2008 “Về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
giai đoạn 2008 2015”;
Nghị
Có thể bạn quan tâm!
- Chủ Trương Của Đảng Bộ Tỉnh Thanh Hóa Về Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng Ở Xã, Phường, Thị Trấn
- Chỉ Đạo Công Tác Giáo Dục Chính Trị, Tư Tưởng Cho Cán Bộ, Đảng
- Chỉ Đạo Củng Cố, Kiện Toàn Tổ Chức Cơ Sở Đảng , Xây Dựng Cấp Ủy Ở Xã, Phường, Thị Trấn
- Chỉ Đạo Công Tác Kiểm Tra, Giám Sát, Thi Hành Kỷ Luật Đảng, Phát Huy Vai Trò Của Các Tổ Chức Chính Trị Xã Hội Tham Gia Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở
- Phát Huy Vai Trò Của Các Tổ Chức Chính Trị Xã Hội Tham Gia Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng Ở Xã, Phường, Thị Trấn
- Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2015 - 19
Xem toàn bộ 281 trang tài liệu này.
quyết số
04
NQ/TU xác định mục tiêu cụ
thể
đối với cán bộ
là cấp
ủy viên ở
xã,
phường, thị trấn đến năm 2015: “100% đạt chuẩn về văn hoá, chuyên môn, chính trị, trong đó có 40% cán bộ ở miền xuôi và miền núi thấp, 10% cán bộ ở miền núi cao trở lên có bằng đại học chuyên môn” [138, tr. 4]. Ngay
sau khi có kết quả phê duyệt quy hoạch, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các
cấp cấp ủy cơ sở đã quan tâm và chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; số lượng cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị ngày càng nhiều, nhất là đào tạo đại học cho đội ngũ cán bộ ở xã, phường, thị trấn. Theo đó, “ưu
tiên đào tạo cán bộ đã được quy hoạch và theo chức danh cán bộ: Các địa phương phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong quy hoạch được đi đào tạo” [138, tr. 9]. Cán bộ trong nguồn quy hoạch phải chủ động và có ý thức tự giác trong học tập, rèn luyện để đạt kết quả cao. Cùng với đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở. Từ năm 2010 đến năm 2015, Tỉnh
và các huyện mở nhiều lớp đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học chuyên
môn và lý luận cho cán bộ ở xã, phường, thị trấn. Trường Chính trị Tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện đã thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở, phối hợp với những cán bộ có kinh nghiệm của các ban đảng, cấp ủy các cấp tham gia giảng dạy, truyền đạt, trao đổi một số chuyên đề cho các lớp trung cấp và sơ cấp lý luận chính trị được đúc kết từ thực tiễn công tác xây dựng đảng, công tác tổ
chức cán bộ ở
địa phương. Từ
năm 2010 đến năm 2015, Tỉnh đã đào tạo
trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ xã, phường, thị trấn 7.663 người [176, tr. 9].
Đến năm 2015, tổng số
cán bộ ở
xã, phường, thị
trấn có 13.530
người, trong đó: Cán bộ 6.446 người chiếm 47,64%, có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm 0,80%; đại học chiếm 41.08%; cao đẳng chiếm 5%; trung cấp
chiếm 40,3%; sơ cấp chiếm 3,25%; chưa qua đào tạo chiếm 9,50%. Cử
nhân và cao cấp lý luận chính trị chiếm 3,35%; trung cấp chiếm 87,17%; sơ
cấp chiếm 3,86%; chưa qua đào tạo chiếm 5,61%... Bên cạnh đó, chất
lượng đào tạo cán bộ chưa cao; việc đào tạo có biểu hiện chạy theo số
lượng, đào tạo tại chức nhiều hơn đào tạo tập trung; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới, các kỹ năng lãnh đạo, quản lý vẫn là khâu yếu.
Công tác điều động, luân chuyển cán bộ: Chương trình hành động số
07CTr/TU của Tỉnh ủy Thanh Hóa, ngày 04/01/2011 nhấn mạnh: “Khân̉
trương xây dưn
g phương ań
điêù
động, luân chuyển cań
bộ lañ h đạo, quản lý
ở các cấp, các ngành nhằm tạo điều kiện rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách
cán bộ, nhất là cán bộ trẻ” [131, tr. 4]. Tuy nhiên, việc điều động cán bộ
phải xuất phát từ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của Tỉnh và thực tế cán bộ của địa phương. Có thể điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý từ các sở, ban, ngành cấp huyện về xã, phường, thị trấn và ngược lại hoặc có thể điều động từ ngành này sang ngành khác, từ địa phương này sang địa phương
khác. Cán bộ cấp trưởng
giữ
chức vụ
2 nhiệm kỳ liên tục
thì phải điều
động sang vị trí công tác khác.
Công tác điều động, luân chuyển cán bộ
góp phần quan trọng rèn
luyện, bồi dưỡng, thử thách để trưởng thành. Nghị quyết 04NQ/TU của Tỉnh ủy Thanh Hóa nhấn mạnh: “Việc luân chuyển cán bộ phải theo quy hoạch” [138, tr. 12]; do đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có kinh nghiệm thực tiễn; những địa phương phong trào chậm phát triển trong một thời
gian dài Tỉnh
ủy chỉ
đạo phải được thay đổi, bổ
sung cán bộ
chủ
chốt.
Việc luân chuyển cán bộ phải được mở rộng hơn, đặc biệt đã chú trọng
đến luân chuyển đối với một số
chức danh cán bộ
lãnh đạo, quản lý
không phải là người địa phương và luân chuyển ngang; kết quả điều
động, luân chuyển cán bộ đã làm chuyển biến và thay đổi về nhận thức trong cán bộ, đảng viên; khắc phục dần tình trạng khép kín, cục bộ ở
từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, việc điều động, luân
chuyển cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi để rèn luyện, bồi dưỡng, thử
thách cán bộ, giúp cán bộ phấn đấu, trưởng thành, góp phần bổ sung, điều chỉnh cơ cấu đội ngũ và bảo đảm cho việc bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, đáp ứng yêu cầu cho cả trước mắt và lâu dài. Đã luân chuyển “316 cán bộ
thuộc diện ban thường vụ các huyện, thị, thành ủy quản lý (từ huyện về xã, phường, thị trấn 150: làm bí thư 74, phó bí thư trực đảng ủy 20, chủ tịch UBND 26, phó chủ tịch UBND 17; từ cấp xã lên cấp huyện 63; từ xã này sang xã khác 103)” [160, tr. 10]. Đây là lần điều động, luân chuyển cán bộ lớn nhất, khắc phục được những thiếu sót trong công tác cán bộ; việc điều động, luân chuyển đã tạo được thống nhất rất cao trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các cấp ủy ở xã, phường, thị trấn; các cán bộ được điều động, luân chuyển phấn khởi, có quyết tâm cao, tích cực rèn luyện, tu dưỡng và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, được dư luận đồng tình và đánh giá cao. Bên cạnh đó, “Công tác điều động, luân chuyển cán bộ ở một số địa phương gây yếu tố bất ổn định trong đội ngũ cán bộ; công tác tiếp nhận, bố trí cán bộ thực hiện chưa đảm bảo quy trình, còn
nặng tính chủ
quan của người đứng đầu, có biểu hiện “chợ
chiều, cuối
khóa” dẫn tới chất lượng không đảm bảo” [165, tr. 5].
3.2.3.2. Xây dựng đội ngũ đảng viên ở xã, phường, thị trấn
Xây dựng lập trường, bản lĩnh chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho đảng viên: Chương trình hành động số 07CTr/TU ngày 04/01/2011 Về
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII nhấn mạnh: Đổi mơí
mạnh mẽ nội dung và phương phaṕ
giaó
duc
Chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cań
bộ, đảng viên; tập trung chi
đạo
chuyên manḥ sang làm theo tấm gương đạo đức Hồ Minh; phat́ huy truyêǹ
thôń g caćh mạng cua quê hương, khơi dâỵ loǹ g yêu nước, niềm tự hào và ý
thức trách nhiệm trước sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước. Đồng
thời, Tỉnh ủy Thanh Hóa xác định rõ: “Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Do vậy, cấp ủy đảng ở xã, phường, thị trấn nhất là người đứng đầu phải trực tiếp làm công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên” [156, tr. 13].
Theo đó, Tỉnh ủy chỉ đạo nâng cao hiệu quả việc quán triệt triển khai, tổ chức thực hiện chủ trương đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; đẩy
mạnh tuyên truyền, thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn với phổ biến, giáo
dục chính sách, pháp luật Nhà nước sâu rộng cho đội ngũ đảng viên; đổi
mới phương thức tiến hành hoạt động nắm bắt dư luận ở xã, phường, thị
trấn. Trong những năm 2010 2015,
cấp
ủy đảng
ở xã, phường, thị
trấn
quan tâm nắm vững tình hình tư tưởng đội ngũ đảng viên; tập trung lãnh đạo
tuyên truyền các sự
kiện chính trị
lớn của đất nước, trọng tâm là tuyên
truyền đại hội đảng bộ các cấp; tổ chức cho đảng viên tham gia góp ý vào dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng các cấp và văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Ngay sau Đại hội, các cấp ủy đảng đã tập trung triển khai học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đến đảng viên.
Công tác quản lý, rèn luyện đảng viên: Ngày 12/03/2013 Tỉnh ủy
Thanh Hóa ra Quyết định số 875QĐ/TU Quy định một số vấn đề quản lý cán bộ, đảng viên chỉ rõ: Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quy định của Trung ương và Tỉnh về công tác quản lý cán bộ, đảng viên, trọng tâm là Quyết định số 47QĐ/TW ngày 01/11/2011
của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về
những điều đảng viên không
được làm. Thực hiện Quyết định của Tỉnh ủy, các cấp ủy đảng, nhất là ở xã, phường, thị trấn đã quán triệt và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng; kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân chấp hành nghiêm các quy định về đạo đức công sở, chấp hành nghiêm kỷ luật lao động; xử lý nghiêm những trường hợp thoái hóa, biến chất, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, trọng tâm là cán bộ quản lý ngân sách, đất đai, xây dựng…
Thực hiện Hướng dẫn số 27HD/BTCTW ngày 25/9/2014 của Ban
Tổ chức Trung ương về Kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân
loại chất lượng TCCSĐ, đảng viên hằng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo việc đánh giá chất lượng đảng viên ở xã, phường, thị trấn được thực hiện mỗi năm một lần gắn với tổng kết của địa phương. Nội dung đánh
giá tập trung về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; việc
thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; tổ chức kỷ luật. Quán triệt và
thực hiện quy định của Ban Thường vụ
Tỉnh
ủy Thanh Hóa, các cấp ủy
đảng
ở xã, phường, thị
trấn tập trung làm tốt công tác quản lý, giáo dục
đảng viên, kết quả đánh giá phân loại đảng viên hàng năm đảm bảo chặt chẽ, phản ánh đúng chất lượng của đội ngũ đảng viên. Bên cạnh đó, công tác quản lý đảng viên của một số cấp ủy, chi bộ có lúc, có nơi chưa được sâu sát, phân công nhiệm vụ cho đảng viên chưa rõ ràng, một số ít đảng viên tinh thần tự giác chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị chưa nghiêm túc, chưa thực sự gương mẫu, còn ngại học tập, nghiên cứu chỉ thị, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Công tác phát triển đảng viên: Ngày 27/4/2011 Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Quyết định số 195QĐ/TU Ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhấn mạnh: “Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên mới, coi trọng kết nạp người trẻ tuổi, người lao động và nông dân” [157, tr. 720]. Do đó, công tác phát triển đảng viên luôn được các cấp ủy đảng xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng.
Thực hiện Quy định số 123QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX), Quy định một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo. Trên địa bàn toàn tỉnh Thanh
Hóa có “4 tôn giáo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đang hoạt động, đó là đạo Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao Đài. Số tín đồ theo các tôn giáo gần 250.000 người, ở 308/637 xã chiếm 7,4% dân số toàn Tỉnh” [145, tr. 1]. Xác định công tác phát triển đảng viên người có đạo là nhân tố góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong vùng đồng bào có đạo, tạo nguồn cán bộ tại chỗ, xóa được những thôn (làng, bản) chưa có đảng viên và tổ chức đảng.
Thực hiện Quy định 123QĐ/TW, cấp ủy các cấp từ huyện đến cơ
sở tổ chức triển khai học tập, quán triệt nội dung của Quy định; chỉ đạo
tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng là người có đạo phấn đấu vào Đảng, đã đạt được kết quả nhất định. Việc tạo nguồn kết nạp đảng
viên là người có đạo được các cấp ủy quan tâm đúng mức hơn; đã xây
dựng kế hoạch tạo nguồn; tổ chức tuyên truyền, giáo dục và chỉ đạo các tổ chức đoàn thể quần chúng quan tâm vận động đoàn viên, hội viên tích cực tham gia hoạt động đoàn, hội, làm cơ sở phát hiện, giới thiệu quần chúng ưu tú là người có đạo phấn đấu vào Đảng, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng Đảng ở vùng có nhiều đồng bào theo đạo sinh sống. Các cấp ủy đảng, các tổ chức đoàn thể trong HTCT đã coi trọng việc xây dựng cơ cấu đảng viên có đạo tham gia cấp ủy, lãnh đạo từ huyện đến cơ sở; có một số đảng viên có đạo đã được quy hoạch, bố trí giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức Mặt trận, các đoàn thể chính trị ở cơ sở và ở chi bộ, thôn, phố (như thành phố Thanh Hóa, huyện Tĩnh Gia, huyện Nga Sơn, huyện Hoằng Hóa…); đặc biệt quan tâm lựa chọn, bồi dưỡng những đoàn viên, hội viên làm công tác tôn giáo, có khả năng thuyết phục, vận động quần chúng; qua đó, tích cực tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, vận động, bồi dưỡng nhiều đoàn viên, hội viên ưu tú là người có đạo được kết nạp vào Đảng.
Công tác phát triển đảng viên là người có đạo thực hiện đảm bảo
theo quy trình kết nạp Đảng, số lượng kết nạp vào Đảng hàng năm đều
đạt yêu cầu, chất lượng ngày càng được nâng lên [Phụ lục 21]. Các cấp ủy cơ sở đã tạo điều kiện thuận lợi cho đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo và thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên, đúng quy định của Điều lệ Đảng, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”; góp phần tích cực vào sự phát triển KT XH ở địa phương và giữ vững an ninh chính trị và xây dựng HTCT ở cơ sở.
Trong những năm 2010 2015 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII công tác phát triển đảng viên được quan tâm hơn, nhất là phát triển đảng viên là công nhân, nông dân và đảng viên ở thôn, bản thuộc các huyện vùng cao chưa có chi bộ, chưa có đảng viên, vùng đồng bào có đạo. Tình hình kết nạp đảng viên (2010 2015) ở xã, phường, thị trấn gần 29.650 đảng viên (trong đó đảng viên theo đạo Công giáo là 260 đảng viên, theo đạo Tin lành 09 đảng viên (đạt 0,9%)) [Phụ lục 21], hoàn thành chỉ tiêu phấn đấu mỗi năm kết nạp 6.000 đảng viên. Nhìn chung, chất lượng đảng viên kết nạp mới được nâng lên. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức, số đảng viên kết nạp ở địa bàn nông thôn có xu hướng giảm, do phần lớn thanh niên đi làm ăn xa không có điều kiện theo dõi kết nạp. So với giai đoạn 2005 2010, công tác phát triển đảng viên vùng đồng bào có đạo tăng 0,2%.
3.2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn