nhân vật của ông thường là những người dân miền núi. Đó là những người nông dân quanh năm gắn bó với nương rẫy; là những sinh viên, bác sĩ, kĩ sư … muốn đem hết tài trí của mình để xây dựng quê hương; là những ca sĩ, nhạc sĩ hay những người làm ăn buôn bán… Thế giới nhân vật ấy khá đông đảo với cả nam và nữ, cả già và trẻ. Bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng, Ma Trường Nguyên đã có những thành công nhất định trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
3.2.2.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật. Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật trong tác phẩm văn học. Xây dựng nhân vật qua khắc họa ngoại hình là một thủ pháp quen thuộc trong sáng tạo của các nhà văn nói chung, của Ma Trường Nguyên nói riêng.
Trong quá trình xây dựng nhân vật, Ma Trường Nguyên thường không đi sâu đặc tả ngoại hình nhân vật, nhưng với sự kế thừa cách miêu tả truyền thống kết hợp với bút pháp miêu tả hiện đại, những nhân vật của ông vẫn hiện lên với nét riêng. Nếu như Vi Hồng, Cao Duy Sơn thường hay sử dụng thủ pháp so sánh, liên tưởng để miêu tả ngoại hình nhân vật thì Ma Trường Nguyên lại chú ý đến việc khắc họa nhân vật qua chi tiết. Một số chi tiết ngoại hình mà nhà văn thường xuyên sử dụng với tần số cao là đôi môi, đôi mắt, đôi má và khuôn ngực.
Miêu tả người phụ nữ, nhà văn như muốn nhấn đậm vẻ đẹp phồn thực, một vẻ đẹp chứa đựng sự sinh sôi, nảy nở. Có lẽ vì thế nên hình ảnh khuôn ngực người phụ nữ xuất hiện khá nhiều lần trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh này như một điểm nhấn trong miêu tả ngoại hình nhân vật. Đây là hình ảnh nhân vật Sáy: "Sáy xắn quần cao tới bẹn, mặc cái áo rách tay tới nách để lộ ra thân thể đứa bé gái đã vào tuổi dậy thì mơn mởn, lộ hai quả cau trước ngực nhòn nhọn, căng lên, ra dáng một cô gái trẻ.” [24, tr.40]; và “Sáy đang ngủ say, trên mình chỉ mặc mỗi chiếc yếm. Ông chủ nhìn rò khuôn mặt Sáy, hai cánh mũi thở khe khẽ, bộ ngực nở nang, chóp vú nhọn in hằn trên lớp vải mỏng phập phồng theo nhịp thở. Bộ đùi thon thả, trắng ngà duỗi song song theo tư thế nằm thoải mái.” [24, tr.129]. Sự thiếu thốn của cuộc sống qua việc “mặc cái áo rách tay
tới nách” không thể che khuất đi vẻ đẹp đầy nữ tính và rất quyến rũ của một cô gái đang đến tuổi dậy thì. Hình ảnh “hai quả cau trước ngực nhòn nhọn, căng lên” và “bộ ngực nở nang, chóp vú nhọn in hằn trên lớp vải mỏng” thể hiện rò vẻ đẹp của sức sống căng tràn ấy. Nhân vật Húng trong Bến đời cũng được khắc họa với một bộ ngực “nhọn căng in hằn trong làn áo mỏng” [22, tr.67]. Có thể nói, Ma Trường Nguyên rất tài tình trong việc tìm điểm nhấn ngoại hình để lột tả đời sống tâm hồn, tính cách nhân vật. Cũng là miêu tả bộ ngực nhưng ở những con người có đời sống tâm hồn trong sáng thì vẻ đẹp không hề nhuốm màu sắc dục. Trái lại, với những nhân vật mà hoàn cảnh sống đã làm cho họ thay đổi theo chiều hướng xấu thì hình ảnh bộ ngực lại khơi gợi sự không đứng đắn, thiếu đoan trang. Trong Bến đời nhà văn miêu tả: “Bộ ngực đẫy đà của Lệ Hà đã vạch áo ra thỗn thện” [22, tr.183] và bà Húng “ngủ quên vạch tốc ngực hở thỗn thện bộ vú quá cỡ chảy ra hai bên nách” [22, tr.141]. Không còn thấy ở đây vẻ đẹp trong sáng, thay vào đó người đọc chỉ còn thấy một hình ảnh của con người tự nhiên thô tục. Hai chữ “thỗn thện” được nhà văn sử dụng rất đắt giá. Nó gợi một hình ảnh không đẹp cả về hình thể và tâm hồn.
Bên cạnh hình ảnh bộ ngực, đôi mắt cũng là một chi tiết mà Ma Trường Nguyên tập trung miêu tả. Đôi mắt của Sáy trong Mùa hoa hải đường được nhà văn nhắc đến rất nhiều lần với nhiều trạng thái khác nhau. Khi còn là một cô bé ngây thơ, cặp mắt ấy “long lanh” nhanh nhẹn. Khi phải rời xa cha, đôi mắt “rưng rưng” nỗi đau li biệt. Khi đã quá mệt mỏi vì phải trải qua nhiều sóng gió thì “cặp mắt thiu thiu nhắm nghiền ngủ ngon như một đứa trẻ qua cơn hờn dỗi”. Và lúc người ta mang đi đứa con mình thương yêu nhất, đôi mắt ấy tột cùng đau khổ “đầm đìa nước mắt”. Có thể thấy, ở mỗi thời khắc biến động, thăng trầm của cuộc đời, đôi mắt của Sáy lại hiện lên với một vẻ riêng. Điều đó gợi ở người đọc những rung động trước cả số phận và đời sống tâm hồn của nhân vật.
Đôi mắt của nhân vật Khóng trong Bến đời lại khơi gợi về một con người hoàn toàn khác. Khi sự ghen tuông dâng lên “mắt ông long sòng sọc”. Lúc trong cơn khát thèm nhục dục “đôi mắt ông ti hí chớp chớp nhìn vào bộ ngực đẫy đà của Lệ Hà đã vạch áo ra thỗn thện” [22, tr.183]. Ánh mắt khi dữ tợn khi lại khát thèm ấy
Có thể bạn quan tâm!
- Trân Trọng Những Khát Vọng Tự Do Trong Tình Yêu Của Con Người Miền Núi
- Cốt Truyện Và Các Yếu Tố Ngoài Cốt Truyện
- Nghệ Thuật Xây Dựng Nhân Vật Trong Tiểu Thuyết Của Ma Trường Nguyên
- Sử Dụng Hệ Thống Từ Ngữ Gắn Với Cuộc Sống Của Đồng Bào Dân Tộc Miền Núi
- Đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên - 13
- Đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên - 14
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
gợi cho ta cảm giác không an toàn như đang đứng trước một mối nguy hiểm. Ngoại hình ấy rất tương xứng với bản chất con người lão Khóng khi nhân vật này đã có hành động độc ác là ra tay sát hại người đã từng là vợ của mình.
Các chi tiết như cặp môi, đôi má cũng xuất hiện khá dày đặc khi nhà văn miêu tả ngoại hình. Trong Mũi tên ám khói Đao có đôi má “đỏ bừng hoa mạ đang nở”, bà Vang có “đôi môi cắn chỉ đỏ tươi”. Va (Gió hoang) có “đôi môi tươi tắn” và “đôi má mịn màng”. Trong Bến đời, Kim Công được miêu tả với “gò má non tơ xinh xắn”, Lệ Hà với “đôi má bầu bĩnh và đôi môi đỏ hơn hớn như quả dâu da rừng ngọt ngào”. Diêu Anh và A Hoa trong Rễ người dài cũng sở hữu những “đôi môi chót đỏ” và “đôi môi tươi rói như hoa”. Việc sử dụng những tính từ kết hợp với so sánh khi miêu tả vẻ đẹp của những cặp má, đôi môi ấy đã làm cho nhân vật hiện lên rò nét, sinh động và giàu sức sống hơn.
Miêu tả ngoại hình, nhiều khi tác giả trực tiếp lên tiếng nhưng cũng có khi nhà văn để cho nhân vật khác cất lên tiếng nói. Cách miêu tả từ nhiều góc nhìn như vậy giúp nhân vật hiện lên sinh động hơn, mặt khác lại giúp cho cách miêu tả của tác giả trở nên hấp dẫn hơn, bớt đi sự tẻ nhạt. Muốn người đọc nhận ra Va là một cô gái xinh đẹp, tác giả đã để Lèng cảm nhận trực tiếp: “Anh đã từng đi hát lượn nhiều nơi nhưng chưa từng thấy “cây” lượn nào hát hay mà lại đẹp như cô gái này” [19, tr.47]; hay “Anh thấy vừa thương mến lại vừa choáng ngợp, say say trước một người thiếu nữ xinh đẹp đến ngỡ ngàng.” [19, tr.47]. Tương tự như vậy, vẻ đẹp của Húng được Bồng cảm nhận, vẻ đẹp của Ngát được nhìn qua con mắt của Bềnh (Bến đời), vẻ đẹp của Ngần (Mùa hoa hải đường) được tâm hồn Chẩn soi tỏ Với cách miêu tả như vậy, người đọc hoàn toàn có thể hình dung rò nét vẻ đẹp của Va - một vẻ đẹp khiến cho người khác vừa cảm thấy thương mến, vừa choáng ngợp, say say. Đây không đơn giản chỉ là vẻ đẹp của ngoại hình nữa mà dường như sau đó là cả một nhân cách đáng trân trọng.
Cũng giống như Vi Hồng, Triều Ân, nhà văn Ma Trường Nguyên cũng thường “trông mặt mà bắt hình dong” nhân vật của mình. Vì thế nhân vật của ông có mối quan hệ thuận chiều giữa phẩm chất, tính cách với dáng vẻ bề ngoài. Trong các tác
phẩm, hầu hết các nhân vật có hình thức đẹp thì đều là người tốt, ngược lại những người xấu về ngoại hình cũng mang bản chất xấu. Có lẽ đây là sự ưu ái của nhà văn dành những người có phẩm giá. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, không phải những người có ngoại hình đẹp bao giờ cũng là người tốt; hay ngược lại, những người kém may mắn có ngoại hình không được đẹp thì đều là người xấu. Phải chăng cách xây dựng nhân vật như vậy chứng tỏ nhà văn đã quá cứng nhắc trong cách nhìn, cách đánh giá con người? Và như vậy cần phải có một cách nhìn nhận đa chiều hơn. Đây là điều mà tiểu thuyết Ma Trường Nguyên cần hướng tới.
3.2.2.2. Khắc họa nhân vật qua đời sống nội tâm
Nội tâm là “những tâm tư tình cảm riêng của mỗi con người” [40, tr.951]. Nội tâm nhân vật là khái niệm “chỉ toàn bộ cuộc sống bên trong của nhân vật, đó là những tâm trạng suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác; những phản ứng tâm lý của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà nhân vật chứng kiến hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của mình” [ 3]. Pospelov cho rằng miêu tả nội tâm nhân vật là “phương thức quan trọng nhất để chiếm lĩnh đời sống con người bằng văn học nghệ thuật”. L. Tônxtôi cũng nói: "Mục đích chính của nghệ thuật... là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được". Nói như vậy để thấy rằng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả thế giới tình cảm bên trong tâm hồn con người là việc làm không thể thiếu. Chính nội tâm nhân vật và cách tác giả thể hiện hợp lý, sâu sắc nội tâm ấy đã làm cho nhân vật có sức sống lâu bền.
Ma Trường Nguyên cũng dành nhiều tâm huyết để đi sâu khám phá thế giới nội tâm của con người. Không chỉ dừng lại ở những nét miêu tả ngoại hình, nhà văn còn chú ý khắc họa những tâm tư, tình cảm, tâm trạng của nhân vật. Chính sự từng trải, vốn sống, vốn văn hóa Tày phong phú cùng với tấm lòng nhân hậu và giác quan nhạy bén của người nghệ sĩ đã giúp Ma Trường Nguyên có thể nắm bắt và diễn tả chính xác những suy nghĩ, trăn trở, những đợt sóng cảm xúc đang diễn ra trong tâm hồn nhân vật. Điều này đã đem lại những thành công cho tiểu thuyết của nhà văn.
Khắc họa nội tâm nhân vật, Ma Trường Nguyên thường sử dụng kết hợp rất nhiều biện pháp. Có khi tác giả trực tiếp miêu tả, dẫn dắt, lí giải để người đọc thấy được những suy tư, những khát khao của nhân vật; khi lại để cho nhân vật tự biểu hiện đời sống nội tâm thông qua dáng điệu, cử chỉ, nét mặt… Một điểm dễ nhận ra là nhà văn ít sử dụng độc thoại nội tâm để khắc họa thế giới bên trong tâm hồn của nhân vật mà thường sử dụng lồng ghép, đan xen ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả. Đây là đoạn văn miêu tả tâm trạng của Lềnh (Rễ người dài) sau khi gặp lại A Hoa: “Đã hơn hai mươi mùa nương trôi qua rồi, đêm nay mọi thứ lại dồn về sống dậy trong lòng Lềnh ồn ào như suối lũ. Anh không ngủ được muốn uống rượu cho say mềm mà ngủ quên đi tất cả. Nào ngờ, Lềnh càng uống men rượu ngấm vào cơ thể lại càng làm cho anh tỉnh táo. Lềnh dốc ngược bình rượu đã cạn khô không còn đến một giọt để nhấp môi. Đôi môi Lềnh khô khốc nóng bừng bừng. Anh chợt nhớ đến một vật kỷ niệm thiêng liêng nhất đời anh. Lềnh lần lại phía đầu giường ngủ. Anh như không còn biết mình làm gì. Hai tay lần mò tìm chiếc hòm gỗ. Anh mở nắp thục tay xuống tận đáy lấy lên một bọc tròn tròn gói vải chàm. Tay Lềnh lóng ngóng nắm chặt đặt lên môi khô khát. Anh hôn tới tấp hôn đến ngạt thở. Một lúc lâu anh mới từ từ giở từng lớp vải bọc lộ ra một chất kim khí màu trắng. Chiếc vòng bạc! Lềnh nhớ ra rồi. Chiếc vòng! Trời ơi, chiếc vòng bạc của A Hoa” [23, tr.65]. Bằng một vài phác họa, Ma Trường Nguyên đã vẽ được một bức tranh tâm trạng chân thực, đầy xúc động. Đoạn văn như đã chạm vào miền vô thức của nhân vật, chạm vào sâu thẳm nỗi đau. Hai mươi năm đã trôi qua. Hai mươi năm ôm ấp mối tình đầu không thành với A Hoa nên giờ gặp lại mọi kỉ niệm ào về mạnh mẽ “ồn ào như suối lũ”. Nỗi nhớ trào dâng, diết da, cháy bỏng khiến Lềnh không ngủ được và hành động của anh như trở nên vô thức. Hình ảnh Lềnh “như không còn biết mình làm gì”, bàn tay “lóng ngóng” và hành động “hôn tới tấp hôn đến ngạt thở” lên “một bọc tròn tròn gói vải chàm” đã gợi một tâm trạng đầy ám ảnh. Ngôn ngữ tác giả đã giúp người đọc chạm đến những cảm xúc sâu kín tận đáy lòng nhân vật. Cảm xúc ấy như vỡ òa trong hàng loạt câu văn cảm thán - cũng là ngôn ngữ của nhân vật - ở
cuối đoạn văn. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật ở đây đã khiến nội tâm nhân vật trở nên sinh động và sắc nét.
Nhà văn còn sử dụng lời nửa trực tiếp kết hợp lời trực tiếp trong miêu tả tâm lí nhân vật. Những suy nghĩ của Ngát, một góa phụ trẻ có chồng hi sinh ngoài mặt trận khi ăn nằm với người đàn ông khác được miêu tả bằng những lời văn như thế: “Khi sự việc xảy ra rồi, bà Ngát mới thấy bàng hoàng như trong cơn mơ. Xưa nay bà là người phụ nữ đoan chính không điều tiếng gì. Bà nghĩ nếu ông ta thực sự yêu thương mình phải bàn tới việc cưới xin ngay. Nhỡ ra có điều gì bà còn biết ăn nói ra làm sao? Cũng may hôm đó con bé Kim Công đi học về muộn. Nó mà thấy mẹ với người đàn ông thường đến mua chè lại như thế liệu có thông cảm cho mẹ không?” [22, tr.155-156]. Chỉ bằng 6 câu văn, tác giả đã rất tài tình khi diễn tả trạng thái cảm xúc của một người đàn bà đoan chính đang khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc. Gánh nặng cuộc sống, những trống vắng tinh thần đè nặng lên đôi vai của Ngát đã tạo bao nỗi bàng hoàng, lo sợ. Ở 4 câu văn đầu tiên, tác giả đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả những băn khoăn, lo lắng ấy. Sang đến 2 câu cuối, lời tác giả đã chuyển sang là lời độc thoại của nhân vật, là lời Ngát tự nói với mình. Cách viết ấy khiến người đọc vừa thấy được trạng thái tâm lí bàng hoàng, lo sợ của Ngát vừa nhận ra sự cảm thông của nhà văn trước số phận và những lo âu, dằn vặt của người phụ nữ. Rò ràng, sự kết hợp khá nhuần nhuyễn ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật ở đây đã đem lại những hiệu quả về mặt nghệ thuật.
Cũng với cách sử dụng ngôn ngữ nhân vật kết hợp với ngôn ngữ tác giả, nhà văn đã miêu tả khá thành công những diến biến tâm lí của nhiều nhân vật khác. Trong Gió hoang, đó là những hoang mang, lo sợ của Va khi một lần nữa bị bỏ rơi, bị bắt buộc phải rời khỏi nhà mo Ngàu; là những suy nghĩ của Lèng khi bị dân bản vu cho là phần tử bóc lột. Trong Bến đời, đó là những toan tính của Lệ Hà khi lừa gạt ông Khóng; là những lo âu của Thục, của Thái… Trong Mũi tên ám khói là những xót xa của ông Roạn trước cảnh rừng bị chặt phá… Có thể nói, sự đan xen, kết hợp, chuyển hóa một cách hài hòa giữa lời tác giả và lời nhân vật đã mang lại những hiệu quả nghệ thuật nhất định, giúp cho nhân vật của Ma Trường Nguyên có
chiều sâu hơn, tạo được ấn tượng trong lòng độc giả. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng, Ma Trường Nguyên mới chủ yếu dừng lại ở điểm nhìn của người kể chuyện khi khắc họa nội tâm nhân vật. Mặc dù ông đã có ý thức cố gắng nhập thân vào nhân vật nhưng sự nhập thân ấy chưa đạt được tới mức độ cần thiết. Những đoạn độc thoại nội tâm không nhiều và còn đơn giản nên tiểu thuyết Ma Trường Nguyên chưa có được những nhân vật thật sự ám ảnh người đọc. Đến tiểu thuyết Phượng Hoàng núi, nhà văn đã có ý thức hơn trong việc sử dụng độc thoại nội tâm. Chính vì thế, có nhân vật dù không được dụng công xây dựng nhưng vẫn để lại những ấn tượng khó phai trong lòng độc giả. Đó là hình ảnh nhân vật Nhá với những độc thoại nội tâm thể hiện đậm nét những suy tư sâu kín của nhân vật: “Ồ, sướng không kìa! Gã Ma Loỏng đang cười cợt nói gì mà say mê thế? Gái trẻ Kim Quy cũng cho gã nắm tay ư? Nhá ngồi trên chạc ba cây dẻ có đầy quả gắm quấn cột thòng xuống đan vào nhau như cái vòng. Gió rừng thổi chao chao. Gió thổi hay mắt Nhá hoa lên đấy?… Chuyện gì mà Ma Loỏng và Kim Quy nói với nhau nhiều đến thế? Hai người họ lại ngồi dịch ra xa nhau. Ừ phải đấy! Kim Quy ơi! Cái gã Ma Loỏng có gì hấp dẫn đâu. Gã ăn nói cục cằn. Chân tay gã to, đi đứng hùng hục như trâu đực thấy trâu cái. Chắc tia mắt Ma Loỏng vằn lên như mắt hổ dữ thấy mồi. Gã có gì đáng yêu đâu chứ? Ôi, ta nhầm rồi! Bọn họ lại ngồi gần nhau kìa! Họ còn chụm môi chia hơi cho nhau nữa. Rò khỉ! Ờ, ước gì mình được như gã Ma Loỏng lúc này nhỉ? Xem cái môi nàng Kim Quy ngọt đến đâu? Cả đời Nhá trai tráng vẫn thèm cái môi gái Kinh như gấu thèm mật ong khoái ở rừng. Được vục đầu mình vào bọng ong khoái ngọt lịm kia chắc mình chết mất thôi!” [25, tr.16-17]. Đoạn văn là hàng loạt những câu nhân vật tự nói với mình, trong đó chứa đựng sự ghen tuông sôi sục và khát thèm cao độ. Nhá ghen khi thấy người gã thầm yêu cười nói với Ma Loỏng rồi cầm tay nhau âu yếm. Cũng vì ghen nên gã thấy tình địch thật xấu, chẳng có gì đáng yêu. Sự phức tạp trong nội tâm nhân vật bộc lộ khi Nhá vừa ghét Ma Loỏng nhưng lại ước mình được như người trai ấy. Chính những lời độc thoại của nhân vật đã giúp nhà văn miêu tả được những trạng thái tình cảm phức tạp đan xen trong con người. Nhân vật của Ma Trường Nguyên, vì thế, cũng trở nên sống động và thu hút hơn.
Sáy trong Mùa hoa hải đường là nhân vật được nhà văn dụng công trong miêu tả nội tâm. Bên cạnh những chi tiết miêu tả trực tiếp tâm trạng nhân vật, nhà văn đã chú ý lựa chọn và sử dụng những chi tiết của đời sống, những cử chỉ, hành động có khả năng bộc lộ đời sống nội tâm. Hành động của Sáy “ôm lấy cột nhà gục đầu vào khóc nức nở, vật vã, rung cả mái cọ” khi“nhìn bà Măn bế ẵm đứa con đi trong một buổi sáng mùa xuân còn ẩm ướt hơi sương” [24, tr.157] là một chi tiết có giá trị. Mất con khiến Sáy đau đớn đến tột cùng. Hình ảnh người phụ nữ “khóc nức nở, vật vã, rung cả mái cọ” diễn tả rất thành công cái đớn đau tột cùng ấy. Những tháng ngày Sáy thương nhớ con trong dằn vặt, đớn đau cũng được nhà văn miêu tả thật cảm động: “Cô da diết nhớ thương đứa con gái yêu quý của mình. Có lúc Sáy chỉ muốn chết. Muốn đến thăm con nhưng không thể được. Đêm ấy Sáy cứ trăn trở, hình ảnh con gái bé bỏng cứ hiện về trong Sáy. Một cái tã còn sót lại có mùi khai của nước đái con của Sáy cũng làm Sáy thấy gắn bó gần gũi. Sáy như ngớ ngẩn, cô nắm cái tã của con để ngửi tìm hơi thở mong manh nào đó của nó.” [24, tr.189]. Đoạn văn đọng lại ở một chi tiết nhỏ nhưng rất thật, rất đời thường. Hình ảnh Sáy ngẩn ngơ tìm lại hơi ấm của đứa con qua mùi khai của chiếc tã còn sót lại khiến người đọc thấy xót xa trước tình mẫu tử thiêng liêng, chân thực và cảm động. Không phải ai cũng phát hiện ra chi tiết rất đời thường ấy. Chắc chắn, phải có một giác quan nhạy bén, tâm hồn nhạy cảm và am hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc mới giúp Ma Trường Nguyên “bắt” được chi tiết rất đặc biệt này.
Như vậy, có thể thấy, trong các sáng tác của mình, Ma Trường Nguyên đã khá thành công trong việc khắc họa nội tâm nhân vật. Dù chưa thực sinh động và phong phú trong đời sống nội tâm nhưng các nhân vật cũng đã tạo được những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
3.2.2.3. Khắc họa nhân vật qua các tình huống thử thách
Bên cạnh việc khắc họa ngoại hình, nội tâm thì xây dựng các tình huống để thử thách nhân vật cũng là một biện pháp hữu hiệu nhằm thể hiện tính cách nhân vật. Cách suy nghĩ, hành động và giải quyết của nhân vật trước tình huống đặt ra sẽ giúp độc giả biết được nhân vật ấy là người như thế nào. Trong các tiểu thuyết của mình,